Giá trị kinh tế của rừng ngập mặn và những vai trò của cộng đồng địa phương trong sự gìn giữ tài nguyên thiên nhiên: Nghiên cứu tình huống của Surat Thani, phía Nam, Thái Lan
ECONOMIC VALUATION OF MANGROVES AND THE ROLES OF LOCAL  
					COMMUNITIES IN THAILAND  
					GIÁ TRỊ KINH TẾ CỦA RỪNG NGẬP MẶN VÀ  
					NHỮNG VAI TRÒ CỦA CỘNG ĐỒNG ĐỊA  
					PHƢƠNG TRONG SỰ GÌN GIỮ TÀI NGUYÊN  
					THIÊN NHIÊN:  
					NGHIÊN CỨU TÌNH HUỐNG CỦA SURAT THANI, PHÍA  
					NAM, THÁI LAN.  
					[Type text]  
					Page 1  
				ECONOMIC VALUATION OF MANGROVES AND THE ROLES OF LOCAL  
					COMMUNITIES IN THAILAND  
					Suthawan Sathirathai  
					1.0. LỜI GIỚI THIỆU  
					Hệ sinh thái rừng ngập mặn là một phạm trù rất quan trọng của hệ thống  
					vùng đất ẩm bờ biển và cửa sông. Những rừng ngập mặn đặc biệt thuộc về vùng  
					nhiệt đới chí tuyến, giàu trong động vật và thực vật. Môi trường chính dịch vụ bao  
					gồm sự bảo vệ cơn bão, sự ổn định bờ biển, chống đỡ sự cháy dầu và điều kiện  
					của sự xói mòn đất và nạn lụt. Chúng cũng là một xuất khẩu sinh khối và là một  
					vườn đất trong biển. Ở Thái Lan, mặc dù rừng ngập mặn nhanh chóng biến mất ở  
					nhịp độ đáng sợ, gần 38,909 rai (6,225 ha) mỗi năm (bảng 1.1).  
					Sự khai thác rừng ngập mặn đã gây ra một số phần lớn, thì sự chuyển đổi  
					khu vực rừng ngập mặn thành nơi nuôi tôm có cường độ cao đã trở thành một  
					bước kinh doanh rất liều lĩnh của nhân dân, đặc biệt ở phía Nam Thái Lan.  
					(CORIN 1995). Rừng ngập mặn ngập nước là mục tiêu cho việc nuôi tôm, bởi vì  
					vùng bị ngập với nguồn nước mặn trở thành vùng có nhiều tiềm năng cho việc  
					nuôi tôm (Hassanai 1993). Thật ra, sự chăn nuôi tôm chuối và tôm trơn  
					(Metapeneaun spp.) đã được thực hiện hơn 50 năm. Trong những phương pháp  
					truyền thống, rừng ngập mặn chỉ là một phần nhưng cần có cường độ phát triển  
					cao trong việc chăn nuôi tôm cọp đen (P.Monodon) hoàn toàn thay đổi của vùng  
					rừng ngập mặn. Kiểu nuôi tôm này đã bắt đầu sớm hơn năm 1974. Tuy nhiên, vào  
					năm 1985 khi nhu cầu đánh bắt tôm của Nhật Bản càng ngày càng cao đã nay giá  
					cả lên 100$ /kg theo từng loại tôm và nghề nuôi tôm đã bùng nổ với cường độ cao  
					(Bantoon 1994).  
					Sự phá huỷ vùng ngập mặn cũng được quy vào sự thất bại chính sách. Mặc  
					dù rừng ngập mặn ngập nước là mục tiêu cho việc nuôi tôm, những vùng không  
					[Type text]  
					Page 2  
				ECONOMIC VALUATION OF MANGROVES AND THE ROLES OF LOCAL  
					COMMUNITIES IN THAILAND  
					cần khai thác quá mức nhưng kết quả chưa hợp lý bởi việc khai thác rừng ngập  
					mặn quá mức độ, chưa theo ý định. Tuỳ theo quốc hội đưa ra, tất cả vùng ngập  
					mặn thuộc về chính phủ, được chế độ Bộ Lâm Nghiệp chịu trách nhiệm duy nhất  
					mạnh mẽ về việc canh giữ và bảo vệ vùng rừng ngập mặn. Tuy nhiên trong thực tế  
					rừng ngập mặn đã trở thành vùng tiềm năng kinh tế cho bất cứ ai muốn xâm chiếm  
					đất rừng ngập mặn. Trước đây, những khu vực là đất hoang cằn cỗi mà có thể cải  
					tạo đất để hoạt động kinh tế phát triển hữu ích cao (Hamilton và Snedaker 1984).  
					Hơn nữa, quốc gia kiếm được hơn $1200 triệu mỗi năm từ xuất khẩu tôm đông  
					lạnh (NESDB 1995). Như vậy chính phủ xem xét Bộ Thuỷ Sản (DOF) được theo  
					một điều khiển thiết lập chăn nuôi tôm mạnh mẽ thêm. Trong thực tế, nghề chăn  
					nuôi bất chấp thì khuyến khích nghề chăn nuôi không quan tâm đến khu vực trồng  
					trọt vào địa điểm. Rõ ràng sự thiếu sót chính sách gồm có không chỉ vấn đề của  
					một bất động sản không đúng chế độ, nhưng cũng có sự mâu thuẫn trong mục tiêu  
					chính sách bảo vệ đối với xuất khẩu.  
					Thật ra chính nghề nuôi tôm không ảnh hưởng đến môi trường mà cho rằng  
					dự phòng phí nước từ nông trại đã được thương lượng tốt trước khi thải vào hệ  
					thống nước. Những vấn đề đấu tranh xảy ra khi nuôi tôm trong khu vực sinh thái  
					rừng ngập mặn, vì việc nuôi tôm được cao “giá thị trường “ hơn so với rừng ngập  
					mặn , chính phủ đã đẩy mạnh vào việc chăn nuôi tôm và sự đẩy mạnh này đã đánh  
					giá rất cao với kết quả giá trị kinh tế. Toàn bộ giá trị kinh tế của rừng ngập mặn đã  
					đánh giá thấp bởi vì nó không có thị trường liên quan tới xã hội. Rừng ngập mặn  
					là thành phần tự nhiên, cho nên đầu tiên chọn chính sách một cách phù hợp nhất,  
					đó là điều cần thiết để đánh giá chính xác với giá trị của rừng ngập mặn và so với  
					việc chăn nuôi tôm hiện nay.  
					Ngoài ra, “vấn đề công lý” cần phải suy nghĩ sâu xa việc chăn nuôi tôm đã  
					thành công là vấn đề quan trọng nhất, nó cần phải có công nghệ hiện đại mà có giá  
					trị cao đối với người chăn nuôi quy mô nhỏ, một số lớn đã bị bỏ rơi bởi vì thiếu  
					nước để khai thác, bản chất và kết quả gây hại tới con tôm và kiến thức thực te  
					[Type text]  
					Page 3  
				ECONOMIC VALUATION OF MANGROVES AND THE ROLES OF LOCAL  
					COMMUNITIES IN THAILAND  
					(CORIN 1995). Nó thích hợp với việc nuôi tôm hầu như hoàn toàn với một công  
					việc kinh doanh quy mô lớn, hợp thời. Nó cũng quan trọng nhưng cần chú ý một  
					số nhỏ dân chài trong phía Nam Thái Lan đã tuyên bố bạo động phản đối với việc  
					nuôi tôm. Đây là một số nhỏ dân chài tin vào cuộc sống của họ dựa vào nghề đánh  
					cá biển, đó có lợi trực tiếp từ hệ sinh thái rừng ngập mặn. Từ một cuộc phỏng vấn  
					đầu tiên với người thủ lĩnh của một làng đánh cá trong xã Surat Thani đã cho biết  
					rằng dân làng đã thực hiện rõ rằng mà rừng ngập mặn đã bị tàn phá sau khi thương  
					nghiệp nuôi tôm đã vào trong khu vực của họ. Như một kết qua, họ có thể nhận  
					xét rõ rằng với sự giảm sút sinh lợi của sản phẩm đánh cá của họ và hơn nữa  
					chung bắt đầu bị tổn hại từ nổi sóng gió và cơn bão, trong sự phản ứng lại dân làng  
					đã tổ chức thành nhóm để bảo vệ khu vực rừng ngập mặn mà còn lại để chống với  
					chăn nuôi tôm. Trường hợp này không chỉ có trong xã này, trong xã Songkhla  
					Lake Basin, cũng có dân chái trong xã đã phản đổi với sự tấn công của việc nuôi  
					tôm trong khu vực của chúng. Trong một số dân làng, người đánh cá đã cố gắng  
					khôi phục lại khu vực rừng ngập mặn. Nhưng lợi ích vô hình của rừng ngập mặn  
					cho cộng đồng địa phương không thể được đánh giá. Hơn nữa, dưới pháp luật hiện  
					nay, nhân dân địa phương không có sở hữu để bảo vệ rừng mặc dù rừng ngập mặn  
					đã công nhận với sự cố gắng của chúng. Nhưng đây là thời gian chuyển tiếp cho  
					một điều kiện mới đối với chính sách và dần dần pháp luật này có thể được thay  
					đổi. Mới đây đã có một số phát triển trong chính sách đối với sự bảo tồn rừng ngập  
					mặn, nhưng dưới sự tham gia của cộng đồng địa phương trong hoạt động bảo tồn.  
					Bộ Nông Nghiệp và cộng đồng thuộc về rừng ngập mặn đã công bố mới đây với  
					sự bảo tồn rừng ngập mặn phải được nghiêm trọng, nó là việc cần phải quan tâm  
					tới, chống khai thác rừng ngập mặn và sử dụng khu vực rừng ngập mặn. Rộng cả  
					nước, đây là cách đặc biệt để áp dụng với khu vực rừng ngập mặn mà đã phá  
					hoang để trở thành chỗ nuôi tôm. Hiện nay mặc dù quyền khai thác với sự khai  
					khẩn rừng của đất, rừng đã bị cấm hơn 5 năm nhưng việc cấm đó chưa được áp  
					dụng cho rừng ngập mặn. Sự hoạt động chính sách thứ hai liên quan tới sự lập  
					[Type text]  
					Page 4  
				ECONOMIC VALUATION OF MANGROVES AND THE ROLES OF LOCAL  
					COMMUNITIES IN THAILAND  
					pháp mới trên cộng đồng rừng mà sẽ tuyên bố sớm. Hiện tại, cộng đồng đã lập  
					danh sách trong quá trình đề nghị hiện thời với sự tham khảo đầu tiên của nhà lập  
					pháp. Như vậy nó là sự quan trọng để điều tra với lợi ích của rừng ngập mặn cho  
					cộng đồng địa phương và đã khuyến khích thật sự với việc bảo vệ có hiệu quả tới  
					khu vực rừng ngập mặn. Tóm lại, mục tiêu nghiên cứu với việc kiểm soát chặt chẽ  
					sự phân tích kinh tế đã sử dụng kỹ thuật với giá trị để đánh giá ích lợi của rừng  
					ngập mặn so với lợi ích từ việc thay đổi khu vực rừng ngập mặn trở thành khu vực  
					nuôi tôm.  
					Trường hợp này nó giống trường hợp Ban Tha Po Moo 2 trong thị xã Tha  
					Thong, xã Kanjanadit của tỉnh Surat Thani trong đó 2.500 rai(400 ha). Rừng ngập  
					mặn đã được bảo vệ bởi người dân làng. Lợi ích của rừng ngập mặn với người dân  
					làng đã được đánh giá:  
					1.2 . Mục đích nghiên cứu :  
					Dự án nghiên cứu này thì dựa vào giả thuyết sau 1) Sự chuyển đổi hoàn  
					toàn của rừng ngập mặn trở thành thương nghiệp nuôi tôm đã không được đánh  
					giá nếu lợi ích của rừng ngập mặn that sự được đánh giá. 2) Lợi ích từ rừng ngập  
					mặn có thể cung cấp sự khuyến khích cho cộng đồng địa phương để bảo vệ sinh  
					thái. Sau đó, nếu chứng tỏ đúng hàm ý rằng quyền lợi của cộng đồng địa phương  
					này để canh giữ và bảo vệ tài nguyên đã được công nhận đúng theo pháp luật.  
					Mục tiêu nghiên cứu như sau:  
					1. Kiểm soát sự đánh giá kinh tế của khu vực rừng ngập mặn đã lựa chọn  
					để đánh giá cả giá trị thị trường và không có thị trường của khu vực bảo trợ a) một  
					số hoạt động kinh tế tức là bao gồm gỗ, sản phẩm phu và nghề đánh cá b) dịch vụ  
					sinh thái và môi trường như xuất khẩu biomass và dịch vụ vùng đáy biển cho  
					cuộc sống quan trọng đối với nghề đánh cá. Nhiệm vụ khác gồm có sự tịch thu  
					cacbon, sự baỏ vệ cơn bão, ổn định bờ biển và kiểm tra sự xói mòn đất và lũ lụt.  
					Những giá trị này là lợi ích đã tính của rừng ngập mặn mà có thể so sánh với thực  
					[Type text]  
					Page 5  
				ECONOMIC VALUATION OF MANGROVES AND THE ROLES OF LOCAL  
					COMMUNITIES IN THAILAND  
					giá thu vào từ sự thay đổi toàn bộ của khu vực rừng ngập mặn trở thành sự nuôi  
					tôm có cường độ cao. Nó đã cho rằng NBm thay mặt lợi ich xã hội(gồm có lợi ích  
					môi trường và sinh thái) từ rừng ngập mặn, trong khi NBm tương đương với lợi ích  
					xã hội từ sự thay đổi toàn bộ của khu vực rừng ngập mặn sang thương mại nuôi  
					tôm. Sự thay đổi có giá trị chỉ khi NBs > NBm, nhưng cũng phải chú ý mà NBm  
					trong trường hợp này thay mặt giá trị thấp nhất của rừng ngập mặn từ khi giá trị sử  
					dụng được tính đến, hơn nữa nhiều bằng chứng đã chỉ định rằng nhiều khu vực  
					rừng ngập mặn đã thay đổi toàn bộ vào trong thương mại nuôi tôm và cũng trở  
					thành nước cường toan để chống đỡ hoạt động trong thời gian dài và sẽ bị bỏ rơi  
					dần dần. Sự thất bại này sẽ được tính đến khi giá trị của sử dụng rừng ngập mặn  
					vào thương mại nuôi tôm đã được so sánh.  
					2. Đề đánh giá tiềm năng vai trò của cộng động địa phương trong việc bảo  
					vệ rừng ngập mặn. Lợi ích của rừng ngập mặn đến nhân dân địa phương sẽ trở  
					thành thuế trực thu và cần nhắc lại chi phí đã chịu từ tổ chức bảo vệ của khu vực.  
					Sự phân tích về tài chính của việc lựa chọn đất dùng, mà trong trường hợp thương  
					nghiệp nuôi tôm cũng sẽ hướng dẫn trong tố chức đến sự hiểu biết việc khuyến  
					khích và vai trò của sự giúp đỡ cho việc bảo tồn rừng ngập mặn  
					2.0 GIÁ TRỊ KINH TẾ CỦA RỪNG NGẬP MẶN  
					2.1. Các phƣơng pháp :  
					2.1.1. Tổng quát phương pháp cách tiếp cận và giá trị sử dụng:  
					Phương pháp giá trị kinh tế cần phải đánh giá tiền tệ với sự thay đổi trong  
					sự ấm no của mỗi người bởi sự thay đổi chất lượng môi trường. Đây là giá trị đánh  
					giá đã biết theo tổng giá trị kinh tế (TEV) mà gồm có giá trị sử dụng (UV) và giá  
					trị không sử dụng (NUV). Giá trị sử dụng có thể được chia ra là giá trị sử dụng  
					trực tiếp (IUV) và giá trị lựa chọn (OV). Giá trị gián tiếp thì xác định và đánh giá  
					hơn, có thể chia ra giá trị tồn tại (EV) và giá trị đề lại (BV) (xem hình 2.1)  
					[Type text]  
					Page 6  
				ECONOMIC VALUATION OF MANGROVES AND THE ROLES OF LOCAL  
					COMMUNITIES IN THAILAND  
					Có một lý lẽ mà TEV không tương đương với tổng giá trị môi trường (TV  
					của một tài nguyên). TEV gồm có cả thuyết nhân loại bản vị dùng làm phương  
					tiện và giá trị thực chất. TV gồm có giá trị TEV cộng với giá trị dùng làm phương  
					tiện mà đó không có liên quan tới con người (giá trị dùng làm phương tiện không  
					thuyết nhân loại bản vị) (CSERGE 1995). Có 3 phương pháp khác nhau được sử  
					dụng để xác định hệ sinh thái vùng đất ẩm.  
					1) Cho nó tự phát triển và bảo trì tự nhiên mà có thể tìm đến tích tụ và tự  
					thành lập khả năng của vùng đất ẩm.  
					2) Xuất khẩu với hệ sinh thái khác.  
					3) Xuất khẩu tới xã hội con người.  
					Tổng giá trị kinh tế (TEV)  
					Giá trị sử dụng (UV)  
					Giá trị không sử dụng (NUV)  
					Giá trị sử dụng Giá trị sử dụng Giá trị lựa chọn  
					Giá trị tồn tại (EV)  
					trực tiếp  
					gian tiếp  
					(OV)  
					or Giá trị đề lại (BV)  
					[Type text]  
					Page 7  
				ECONOMIC VALUATION OF MANGROVES AND THE ROLES OF LOCAL  
					COMMUNITIES IN THAILAND  
					Sản phẩm  
					- Giá trị sử dụng - bảo trợ nghề  
					tiêu thụ đánh cá  
					- Giá trị sử dụng - bảo vệ cơn  
					không tiêu thụ bão, etc.  
					Lợi ích  
					Lợi ích  
					Lợi ích  
					- Giá trị của sự điều tra - Giá trị của tài  
					đã tặng lên trong  
					tương lai  
					sản sinh ra trong  
					tương lai  
					Nguyên bản: điều chỉnh từ Barbier (1993)  
					Hình 2.1 Tổng Giá Trị Kinh Tế  
					Dựa vào loại sử dụng khác nhau này, giá trị tổng cộng của vùng đầm lầy  
					TV có thể chia ra 2 giá trị:  
					1) Giá trị đầu tiên hoặc “giá trị gắn lại” (glue value) ( ví dụ :giá trị khả  
					năng thiết lập của sinh thái)  
					2) Giá trị thứ nhì là giá trị sử dụng khác nữa và có thể định rằng là giá trị  
					sản phẩm, trợ sinh và dịch vụ sinh thái mà khả năng tự thiết lập đã sinh ra(Gren  
					et.1994). Mặt khác, tổng giá trị của hệ sinh thái vùng đầm lầy gồm có giá trị đầu  
					tiên mà thật ra là giá trị phương tiện không thuyết nhân loại bản vị và giá trị thứ  
					nhì gồm có cả phương tiện thuyết nhân loại bản vị và giá trị thực chất. Sau đó  
					thích hợp với TEV (tổng giá trị môi trường).  
					Mặc dù giá trị đầu tiên không liên quan trực tiếp tới con người, nó là giá trị  
					tăng viện tự nhiên tới sự tồn tại của hệ thống và sự tiếp tục. Tuy vậy, giá trị này có  
					thể được đánh giá một cách thô bạo theo sử dụng với sự tránh né gây thiệt hại chi  
					phí dự phòng hoặc phương pháp định giá thay thế. Ví dụ: với mục đích để xác  
					định số lượng giá trị trợ sinh của một vùng sinh thái đầm lầy đã nghiên cứu về  
					con người trong một giai đoạn mà đã thực hiện trong đảo Gotland trong nước  
					Thụy Điển, thì đã sử dụng sự phân tích năng lực( Folke 1991). Nó là điều kiện  
					chung trong sinh thái tới sự đánh giá tiềm lực của hệ sinh thái để phát sinh nhiệm  
					vụ sinh thái và dịch vụ theo đo số lượng của năng lượng với việc thu bằng sự  
					[Type text]  
					Page 8  
				ECONOMIC VALUATION OF MANGROVES AND THE ROLES OF LOCAL  
					COMMUNITIES IN THAILAND  
					quang hợp. Bởi vậy sự điều tra đánh giá sự thất bại trong khả năng phát triển của  
					vùng đầm lầy trong hoạt động thu năng lượng mặt trời và phải sử dụng cây kim để  
					giảm bớt chức năng giá trị của vùng đầm lầy. Phương pháp tiếp cận thay thế thất  
					bại này với công nghệ mà con người đã làm ra.  
					Lý do này đã được đưa ra trình bày với mục đích bình luận tài liệu mà nhận  
					thấy quan trọng của sự khác nhau trong việc suy nghĩ bài học. Nhưng nó không có  
					liên quan nhiều tới việc nghiên cứu này mà đặt vào sự nhấn mạnh trên giá trị kinh  
					tế hoặc để gọi là giá trị đầu tiên của hệ thống rừng ngập mặn. Có 2 phương pháp  
					tiếp cận lớn đã được tính (Thurairaja 1994). Phương pháp tiếp cận thứ nhất : đánh  
					giá chung, là đánh giá tổng giá trị kinh tế (TEV) của rừng ngập mặn mà dựa trên  
					lợi ích của họ vaò trong giá trị sử dụng và giá trị không sử dụng mà đã điều tra  
					trước (bảng 2.1). Phương pháp 2 chọn 1 hạng của giá trị rừng ngập mặn vào trong  
					4 phương vị (bảng 2.2). Phương pháp này cũng có thể thích hợp với 2 loại lớn của  
					sự đánh giá như phân loại theo Barbier: phân tích sự tác động và đánh giá từng  
					phần (1993). Thay thế vào sự đánh giá trực tiếp tổng giá trị kinh tế của rừng ngập  
					mặn. Phương pháp này đã tập trung trên sự đánh giá lợi ích từ bỏ của tài nguyên  
					và so sánh nó với lợi ích kinh tế với sự đổi khu vực vào trong khu vực sử dụng  
					thay thế như lúa ngập nước, cây mía và việc nuôi tôm.(Dixon và Lal 1994)  
					Một ví dụ quan trọng của phương pháp thứ hai là trường hợp nghiên cứu  
					theo sự hướng dẫn của Hodgson và Dixon (1988) tới việc điều tra tác động khai  
					khẩn rừng rất mạnh với sự trầm tích trên cảnh xung quanh biển của Bacuit Bay,  
					Palawan, của nước Philippines. Sự phân tích đã giảng giải với sự xuất hiện hoạt  
					động đốt phá rừng trong bước ngoặt của Bacuit Bay, không thể bù lại của lợi ích  
					đã nhận được từ nghề đánh cá biển và du loch trong khu vực. Hiệu quả chính sự  
					trầm tích trên bảo hộ động vật tạo san hô và sự khác biệt nhau với giá trị sử dụng  
					gián tiếp quan trọng trong việc bảo trợ nghề đánh cá biển. Sự thiệt hại của động  
					vật tạo san hô, đá ngầm và tính chất nước sạch cũng bị ảnh hưởng đến du lịch  
					trong điều kiện của phương pháp. Theo văn kiện quan trọng của Barbier (1994) đã  
					[Type text]  
					Page 9  
				ECONOMIC VALUATION OF MANGROVES AND THE ROLES OF LOCAL  
					COMMUNITIES IN THAILAND  
					thảo luận giá trị của nhiệm vụ môi trường,của vùng đất ẩm nhiệt đới với sự nhấn  
					mạnh trên nhiệm vụ kiểm soát sinh thái của họ trong việc bảo hộ hoặc bảo vệ hoạt  
					động kinh tế. Văn kiện đã cung cấp lý luận đào tạo tốt và hy vọng đưa ra phương  
					pháp để sử dụng trong việc đánh giá giá trị sử dụng gián tiếp tơí người kiểm soát  
					vùng đầm lấy, trong văn kiện, mô hình kiểm tra lạc quan đã được dựng lên giống  
					như mô hình trong trường hợp không thể đổi mới được của nguồn gốc tài nguyên .  
					Nhưng trong mô hình đất ẩm lợi ích trong việc sử dụng Situ của tài nguyên đất ẩm  
					được quan tâm tích trữ từ lâu và tài nguyên đất ẩm không phải chỉ có sử dụng mà  
					cũng phải quan tâm đặt trong chức nặng sản xuất nhiều với sản phẩm khác của  
					vùng đẩm lấy, chắng hạn nhiệm vụ môi trường rừng ngập mặn có thể bảo trợ nghề  
					đánh cá bởi cung cấp nơi cho cá con. Nếu lới ích đã định trước trong việc sử dụng  
					Situ của tài nguyên đất ẩm, phớt lờ đi thì vấn đề sễ giảm tới tính trạng bình thương  
					mà không thể thay đổi nguốn gốc tài nguyên được. Trong tính trạng này, cơ hội đề  
					biến đổi tài nguyên này vào trong một phương thức sử dụng sẽ được đánh giá  
					thấp, và sẽ dẫn tới việc sử dụng đất ẩm quá nhiều.  
					Căn cứ theo sự phân tích, áp tới hàm số sản xuất thì có liên quan với  
					phương pháp đánh giá thì sử dụng trong sự bắt lấy giá trị sử dụng gian tiếp của tài  
					nguyên đất ẩm (Barbier 1994).  
					Sự tin rằng tài nguyên đất ẩm phục vụ mỗi sản lượng trực tiếp hoặc đặc biệt  
					sản lượng đưa vào gian tiếp, trong thời gian kiểm soát nhiệm vụ sinh thái của họ  
					trong việc bảo trợ hoạt đồng kinh tế. {Q = F(Xi……XkS); mà Q là một sản phẩm  
					từ bắt lấy phụ thuộc loại rừng ngập mặn ; S là khu vực rừng ngập mặn, Xi……Xk  
					đặt vào tiêu chuẩn cho khu vực đánh cá}. Mô hình phát triển theo Ellis và Fisher  
					(1987) cũng đã sử dụng phương pháp hàm số sản xuất để điều tra nhiệm vụ môi  
					trường của vùng đẩm lấy Gulf coast trong việc bảo trợ thương nghiệp đánh con  
					cua biển.  
					Sử dụng phương pháp hàm số trong trường hợp này thì đơn gian bởi nó chỉ  
					có sử dụng một hệ thống. Nhưng khi kiểm soát một chức nặng sinh thái đã bảo trợ  
					[Type text]  
					Page 10  
				ECONOMIC VALUATION OF MANGROVES AND THE ROLES OF LOCAL  
					COMMUNITIES IN THAILAND  
					mạnh hơn. Hoạt động kinh tế hoặc khi có sự kiểm soát chức năng sinh thái nhiều,  
					đây được trở thành một trường hợp đã sử dụng nhiều hệ thống mà trong đó sử  
					dụng phương pháp chức năng sản xuất có thể khó hơn. Hơn nữa sự cố gắng tập  
					hợp lại tổng giá trị kinh tế của vùng đầm lấy từ nhiều giá trị sử dụng cũng có thể  
					phức tạp bởi gấp đôi vấn đề và sự tương xứng giữa giá trị trực tiếp khác nhau và  
					giá trị sử dụng gián tiếp (Aylward và Barbier, 1992).  
					Sự nghiên cứu này không chấp nhận trực tiếp tổng giá trị (tập hợp lại tổng  
					giá trị kinh tế). Thay thế nó theo phương pháp thứ hai, làm sao để lợi ích đã định  
					trước của rừng ngập mặn là đánh giá và so sánh mà sử dụng một phương pháp, đó  
					là sự chuyển đổi thành nội nuôi tôm, nhưng nó có thể chú ý bởi sự chấp nhận  
					phương pháp này, quyền chọn lựa và giá trị tồn tại thì bị bỏ sót một cách hoàn  
					toàn. Trong việc đánh giá giá trị kinh tế của rừng ngập m ặn, sự nghiên cứu này đã  
					nhấn mạnh chỉ một “giá trị sử dụng” mà gồm có giá trị sử dụng trực tiếp. Giá trị  
					của biodiversity và không dùng giá trị rừng ngập mặn thì không thể đánh giá được  
					trong việc nghiên cứu này. Có thành phần khác của giá trị sử dụng mà có thể nghĩ  
					đến , nhưng nó không thể tìm được địa chỉ trực tiếp của họ. Việc nghiên cứu hiện  
					tại đã nhận ra 4 thành phần mà kiểm soát số liệu kể cả lợi ích của việc sử dụng giá  
					trị kinh tế có ích. Thành phần này gồm có giá trị sử dụng trực tiếp của rừng ngập  
					mặn trong điều kiện :  
					1) Cách sử dụng cộng đồng địa phương và giá trị sử dụng gián tiếp trong  
					điều kiện.  
					2) Sự kết hợp nghề đánh cá biển  
					3) Bảo vệ bờ biển  
					4) Sự hấp thụ cacbon, tuy thế mà đã nhấn mạnh trong hai thành phần đầu  
					tiên( i.e sử dụng địa phương vàsự kết hợp nghề đánh cá biển).  
					2.1.2. GIá trị sử dụng trực tiếp :giá trị sử dụng địa phương :  
					Giá trị sử dụng trực tiếp của rừng ngập mặn dựa trên địa phương có thể sử  
					dụng đánh giá từ việc thu nhập sản xuất theo địa phương từ rừng ngập mặn trong  
					[Type text]  
					Page 11  
				ECONOMIC VALUATION OF MANGROVES AND THE ROLES OF LOCAL  
					COMMUNITIES IN THAILAND  
					điều kiện đốt phá rừng, gỗ để đốt, gỗ khác và sản phẩm động vật như :chim, cua,  
					tập trung trực tiếp từ rừng ngập mặn ngập nước. Nếu sản phẩm đã bán được giá thị  
					trường thì sử dụng để tính toán tất cả thu nhập sản xuất, nhưng khi sản phẩm được  
					sử dụng chỉ có cho mục đích tồn tại, tổng thu nhập đã đánh giá dựa trên giá thay  
					thế với 2 loại đã có thể thực hiện theo phương pháp. Phương pháp thứ nhất thì sử  
					dụng giá trị thị trường mà đóng sản phẩm thay thế. Phương pháp thứ hai thì sử  
					dụng thời cơ đánh giá mà đã dùng thời gian tịch thu sản phẩm. Nhưng giá lấy ra  
					phải trừ từ tổng thu nhập và sẽ tìm ra giá trị sử dụng trực tiếp.  
					Giá trị sử dụng trực tiếp trong địa phương = thu nhập sản xuất cho địa  
					phương sử dụng = ∑ {P1Q1 – C1}  
					Địa điểm P1 = giá sản phẩm i ,Q1 = số lượng sản phẩm i đã được thu lại , C1  
					= giá thu hút trong khi thu lại sản phẩm i.  
					Sự điều tra thường dùng đã dẫn đến đạt được tần số và số lượng thu lại sản  
					phẩm lớn từ rừng ngập mặn, cũng như sức lao động đã dùng trong thu lại sản  
					phẩm đó. Kết quả đã trình bày trong chương 2.2.2.  
					2.1.3. Giá trị sử dụng gián tiếp : Sự kết hợp nghề đánh cá  
					Giá trị sử dụng gián tiếp xác định bởi góp phần vào tài nguyên trong điều  
					kiện môi trường của chúng và chức năng sinh thái rừng ngập mặn là bảo trợ sản  
					phẩm hiện thời và sự tiêu dùng. Một chức năng sinh thái quan trọng của rừng ngập  
					mặn là bảo trợ tới nghề đánh cá bởi dịch vụ đáy biển. Mặc dù sản phẩm từ nghề  
					đánh cá đã giảm thì đặc tính trung bình với sự đánh cá quá mức( khu vực bờ biển  
					là vấn đề chung để mở đường ). Tình trạng giảm sút của khu vực rừng ngập mặn là  
					một kết quả xấu. Từ sự phỏng vấn điều khiển trong Surat Thani (đã xem trong  
					chương 4.2 ). Nhìn thấy rõ sau khi chăn nuôi tôm, đã rút lui một khu vực lớn của  
					rừng ngập mặn, dân làng có thể nhận xét rõ ràng với sự giảm sút sinh lợi sản phẩm  
					đánh cá của họ.  
					Vài thực nghiệm học (trong nước khác) đã làm đề đánh giá giá trị rừng  
					ngập mặn đặt vào sản phẩm nghề đánh cá nhưng sự đánh giá dựa vào trung bình  
					[Type text]  
					Page 12  
				ECONOMIC VALUATION OF MANGROVES AND THE ROLES OF LOCAL  
					COMMUNITIES IN THAILAND  
					trên đơn vị đo lường và chỉ có thay đổi lợi ích hoặc tất cả lợi nhuận , thay vì lợi  
					nhuận chính như indicators trong sự thay đổi trợ cấp xã hội. Đây không có tính  
					chất lý thuyết chính xác và nó đã bỏ thời cơ đánh giá sản phẩm và cung cấp dịch  
					vụ (Ellis và Fisher 1987). Trợ cấp xã hội được ưu đãi với đơn vị đo lường trong  
					trường hợp này thì dựa trên việc thay đổi phối hợp với người tiêu dùng và nhà sản  
					xuất thặng dư.  
					Sự nghiên cứu hiện nay đã cố gắng thực hiện với giá trị rừng ngập mặn  
					trong điều kiện bảo trợ nghề đánh cá bởi thực hành mô hình trong giá trị mà tập  
					trung vào một điểm xác định theo thay đổi người tiêu dùng thặng dư. Thật ra,hiện  
					tại có 3 mô hình thích hợp với sự nghiên cứu này. Mô hình 1, phát triển đầu tiên  
					bởi Ellis và Fisher (1987) và hiện đại hoá bởi Freeman III (1991), không lưu tâm  
					đến sinh vật học. Mô hình 2, nó đã được thừa nhận phối hợp với mối quan hệ kinh  
					tế sinh vật theo Karl-Goran Maler(1996)3. mô hình 3, phát triển theo Dr.Edward  
					Barbier và Professor Ivar Strand (1997)4 thì dựa trên hệ thống cân bằng sinh vật  
					học và kinh tế. Vì một số vấn đề dữ liệu và thời gian hạn chế, chỉ có một mô hình  
					1 đã thực hành trong việc đánh giá giá trị kinh tế rừng ngập mặn trong điều kiện  
					bảo trợ nghề đánh cá biển. Mô hình đã chọn thì được mô tả tóm tắt như sau :  
					. Mô hình Ellis –Fisher –Freeman  
					Mô hình dựa trên công việc của Lynne (1981) thì đã nghiên cứu mỗi quan  
					hệ của vùng tự nhiên đầm lầy với năng suất kinh tế (con cua xanh) trên biển  
					Florida. Người sáng tạo đã chọn mô hình kinh tế sinh vật liên quan khu vực đầm  
					lầy để chụp lấy tỉ lệ áp dụng theo một nhóm nhà sinh vật và theo mô hình của  
					Schaffer. Sản phẩm lề của vùng đầm lầy đã đánh giá bằng cách thực nghiệm.  
					Nhưng giá trị sử dụng gián tiếp của vùng đầm lầy trong điều kiện sản phẩm (con  
					cua xanh) đã được tính toán dựa trên giá trị sản phẩm lề theo trường hợp này đã  
					xem xét theo Ellis và Fisher(1987) với sự không thành công, việc đánh giá thay  
					đổi trong người tiêu dùng và nhà sản xuất thặng dư ,đã kết hợp mạnh hơn với khu  
					vực đầm lầy dựa trên số liệu và sự điều tra từ Lynne. Tất cả công việc của Ellis và  
					[Type text]  
					Page 13  
				ECONOMIC VALUATION OF MANGROVES AND THE ROLES OF LOCAL  
					COMMUNITIES IN THAILAND  
					Fisher (1987) đã phát triển. sự dùng mô hình Cobb-Douglas từ đại biểu của sản  
					phẩm con cua xanh đánh giá vấn đề sắc mặt theo giá thương hồi :  
					max P* f (E,A) – cE  
					A
					P :giá; E :động lực con người mà đánh giá theo số đặt bẫy.  
					A- :khu vực đầm lầy trong mẫu Anh mà tính toán exogeneous trong vấn đề  
					này. Và C :đơn vị giá động lực.  
					X là số lượng bắt cua phụ thuộc trên động lực con người và khu vực đầm  
					lầy mô ta theo chức năng sản phẩm Cobb-Douglas  
					X = f (E,A-) = m Ea Ab  
					Dù rằng, tính đối ngẫu của lợi ích tối đa( làm tăng lên đến cực độ ) giá động  
					lực  
					Min L = cE +(X - m Ea Ab )  
					E
					Phân biệt Lagrangean với mối quan hệ thay đổi động lực và Langrange.  
					Người làm cho bội lên sinh lợi  
					b
					L  
					 c  mA aEa1  0  
					E  
					b
					L  
					  
					 x  mEa A  0  
					Từ ở trên , E có thể giải quyết cho chức năng động lực ,  
					1
					X
					mAb  
					a
					E  [  
					]
					Mà lợi ra chức năng đánh giá  
					[Type text]  
					Page 14  
				ECONOMIC VALUATION OF MANGROVES AND THE ROLES OF LOCAL  
					COMMUNITIES IN THAILAND  
					C(c, X, A)  cm 1a X 1a Ab  
					a
					Trong mô hình Ellis và Fisher đã cho rằng nghề đánh cá dưới chế độ hoàn  
					toàn sở hữu cá nhân. Như vậy giá thì bằng chí phí lề (MC). Theo phân biệt hàm số  
					chí phí với mỗi sản lượng. Chí phí lề có thể biểu diễn :  
					(1a)  
					b  
					1
					(
					C  
					X  
					c
					 m a A a) X  
					a
					P  MC   
					a
					Cho rằng iso-elastic cần phải chức năng: X=DP-d, ngược lại với chức năng  
					P = D1/dX-1/d  
					Dưới chế độ hoàn toàn sở hữu cá nhân, lợi ích tối đa thương hồi sẽ cho giá  
					bằng nhau với chi phí lề. Số lượng bình quân có thể giải quyết như :  
					b
					1
					1
					a
					da/  
					d(1d )a  
					
					a
					d
					a
					X  { D m A }  
					c
					Dù rằng người được hưởng đặc quyền(Freeman III .1991) đã chứng tỏ rằng  
					thật ra với nghề đánh cá phần lớn của tài nguyên thì ở dưới tình trạng mở cửa thị  
					trường. Trong điều kiện này tổng lợi tức thì bằng tổng giá phí tổn và tổn giá thì  
					bằng giá phí bình quân (AC), thay thế giá phí tổn lề. Đơn vị tổn phí của động lực  
					,c, đã dẫn tới sự thích hợp với không có lợi ích.  
					(1a)  
					b
					1
					(  
					 cm a A ) X  
					C
					
					c, X, A  
					
					a
					a
					P  AC   
					X
					Đã cho nhu cầu chức năng iso- elastic, số lượng bình quân có thể giải quyết  
					với :  
					b
					1
					1
					da/[d(1d)a]  
					a
					d
					a
					1
					X { D m A }  
					c
					[Type text]  
					Page 15  
				ECONOMIC VALUATION OF MANGROVES AND THE ROLES OF LOCAL  
					COMMUNITIES IN THAILAND  
					Bởi vậy, có thể tính cả số lượng bình quân và giá kết hợp với trình độ khác  
					nhau của vùng đầm lầy mà có thể ước lượng. Sự phát triển trong vùng đầm lầy sẽ  
					hạ xuống tổn phí và từ bây giờ sẽ nay tới giá thấp. Nhưng dưới sự mở cửa , hạ  
					xuống tổn phí sẽ kéo lại động lực mới mà thậ ra cuối cùng sẽ thặng dư tất cả sản  
					phẩm, chỉ có người tiêu dùng sẽ có lợi ích. Giá trị phát triển trong vùng đầm lầy có  
					thể đánh giá trong điều kiện kết hợp mạnh thêm với người tiêu dùng thặng dư như  
					đã thấy theo khu vực bóng mát trong hình 2.2 với một chế độ hoàn toàn sở hữu cá  
					nhân, giá trị phát triển trong vùng đầm lầy có thể, nhưng trong điều kiện đánh giá  
					phải kết hợp mạnh trong trong cả nhà sản xuất và người tiêu dùng như đã nêu ra  
					với khu vực A trong hình 2.3.  
					2.2 Giá trị kinh tế của rừng ngập mặn :trƣờng hợp nghiên cứu của Surat  
					Thani, phía Nam Thai Lan.  
					2.2.1. Sự điều tra :  
					Trong sự đánh giá giá trị kinh tế của rừng ngập mặn, xã Tha Po đã được  
					chọn làm một vị trí để nghiên cứu. Xã Tha Po Moo 2 đã hơn 100 năm với dân số  
					652 người(131 gia đình) dân làng chủ yếu là dân đánh cá. Xã này trên vị trí bờ  
					biển, ở dưới quận Tha Thong, huyện kanjanadit, tỉnh Surat Thani bao trùm vùng  
					rừng ngập mặn với quy mô rất rộng và đang bao phủ khoảng 7,000 rai(1120 ha).  
					Trước đây dân làng đã phụ thuộc phần lớn vào rừng ngập mặn để làm  
					phương tiện sinh sống, nhưng ở thập kỷ trước đây, 4,000 rai (640 ha) của khu vực  
					rừng ngập mặn dọc theo bờ biển đã được phá hoang để làm thương nghiệp nuôi  
					tôm. Sau đó đa số chính là người ngoài làng, nói chung là người kinh doanh từ  
					Bangkok và một số thành phố khác. Dân làng đã quyết định dự trữ khu vực rừng  
					ngập mặn còn lại trong nước 3,000 rai (480 ha) cho cộng đồng. Tuy nhiên, 500 rai  
					của khu vực rừng ngập mặn khác nữa đã nay mạnh xâm chiếm trên khu vực. Đến  
					năm 1993, dân làng đã tổ chức cho họ với sự nhất quyết lại sự xâm lấn rừng ngập  
					[Type text]  
					Page 16  
				ECONOMIC VALUATION OF MANGROVES AND THE ROLES OF LOCAL  
					COMMUNITIES IN THAILAND  
					mặn để làm một nơi nuôi tôm. Họ đã đề nghị theo một chứng thư để chống án tới  
					Bộ Nông Nghiệp và hợp tác.  
					Căn cứ theo luật pháp, khu vực rừng ngập mặn thuộc về dưới thẩm quyền  
					chính phủ của Ban Lâm Nghiệp (RFD). Nhưng trong thực tế, những khu vực hầu  
					như đã được mở cửa, mà có thể xâm chiếm được khu vực trên. Sau khi khu vực  
					lớn của rừng ngập mặn đã tàn phá,riêng vấn đề tài nguyên và môi trường đã suy  
					đổi như làm suy tàn rất nghiêm trọng đến sinh lợi nghề đánh cá. Một vấn đề nữa,  
					một số dân làng đã rời nhà của họ để đi tránh xa trong khi có cơn bão mạnh.  
					Không có cơ hội nào để ngăn trở trực tiếp trong việc kinh doanh nuôi tôm, dân  
					làng cũng bị tổn hại từ ô nhiễm nước và muỗi – vấn đề gia tăng trong khu vực  
					nuôi tôm.  
					Dân làng đã quyết định thành lập một nhóm để bảo vệ 2,500 rai(400 ha)  
					còn lại trong đất rừng ngập mặn. Chúng tiếp tục phản đối lại với người kinh doanh  
					nuôi tôm mà đa số là dân tự có quyền lực. Nhưng trước đây, nhân viên của Ban  
					Lâm Nghiệp,ai có quyền lực pháp luật trong khu vực mà không có baỏ trợ từ ho,  
					trình bày theo pháp luật thì không có xác nhận cho họ đúng, nó chỉ mới xảy ra mà  
					đã được tiến bộ. Bộ Lâm Nghiệp trong địa phương đã bắt đầu chú ý tới sự quan  
					trọng của rừng ngập mặn, đặc biệt trong động lực môi trường sống quan trọng nhất  
					là những con chim. Bây giờ họ muốn chỉ định bao phủ rừng ngập mặn như bảo vệ  
					rừng và điều chế khu vực không có đi săn. Tuy vậy, dưới pháp luật hiện nay, bảo  
					vệ khu vực để không có đi săn và có thể ngăn trở nhân dân địa phương từ việc thu  
					lại sản phẩm của rừng. Dân làng trong địa phương đề nghị cộng đồng luật bảo vệ  
					rừng mà đã xác nhận trên giấy nhưng chưa được đề nghị giải thích đầu tiên bởi Hạ  
					Nghị Viện. Một thời gian đi qua, cộng đồng luật bảo vệ rừng đã cho phép cộng  
					đồng địa phương tham dự trong việc quản lý rừng trong thời gian dài của tài  
					nguyên này mà không thể mất danh giá rừng ngập mặn còn lại với 400 ha trong xã  
					Tha Po, gồm có nhiều loại như cây Nấm trắng, cây Giá, Thespesia populnea và  
					[Type text]  
					Page 17  
				ECONOMIC VALUATION OF MANGROVES AND THE ROLES OF LOCAL  
					COMMUNITIES IN THAILAND  
					cây Được Bộp là những loại quan trọng nhất. Nhiều loại vào vị trí tỉ trọng của  
					rừng ngập mặn trong xã Tha Po được trình bày trên bảng 2.3.  
					Mức trung bình vị trí tỉ trọng của rừng ngập mặn là 2.256 cây/ha, với mức  
					trung bình sinh khối(biomass) khoảng 45.24 tấn/ha. Nó là sự quan trọng cần chú ý  
					tới, rừng thì đa số gồm có cây cỡ nhỏ.  
					2.2.2 Sự đánh giá giá trị sử dụng trong địa phƣơng  
					Giá trị sử dụng trực tiếp của rừng ngập mặn trong điều kiện sử dụng trong  
					địa phương thì bằng nhau giá trị mức lợi sản xuất từ rừng ngập mặn bởi dân địa  
					phương.  
					Giá trị sử dụng trực tiếp trong địa phương, mức lợi sản xuất cho địa phương  
					sử dụng = ∑ { PiQi – Ci}, thì Pi = giá trị sản phẩm trong thị trường địa phương i;  
					Qi=số lượng sản phẩm i thu lai hiện nay; C1 =giá tổn phí thu hút trong việc thu lại  
					sản phẩm i.  
					Khu vực quan sát 2 đã được hướng dẫn để nghiên cứu với việc sử dụng  
					rừng ngập mặn trong địa phương. Đầu tiên đã kiểm soát một gia đình mà đã hướng  
					dẫn trong tháng 2.1996 và thu được số liệu trên tần số ,số lượng sản phẩm khác mà  
					đã thu từ rừng ngập mặn như là sức lao động đã dùng trong việc thu lại sản phẩm  
					đó. Quan sát thứ 2 trong tháng 6.1996 đã được phỏng vấn cẩn thận và đã thu lượm  
					được số liệu chính xác hơn. Trong quan sát đầu tiên đã thu lại sản phẩm nhiều  
					trong khu vực rừng ngập mặn, theo dân làng này nghề đánh cá và không có sản  
					phẩm gỗ, không có báo cáo của cây hoặc sản phẩm nhiên liệu gỗ có ở trong số  
					sách. Nhưng trong quan sát thứ 2 đã thu được số liệu đầy đủ hơn, mà đã hướng  
					dẫn từ 19 -21 tháng 6.1996 đã xuất hiện ra sản phẩm gỗ và nhiên liệu gỗ mà được  
					thu số liệu từ dân làng. Dựa trên sự phỏng vấn, gần 40% của tổng giá định đã thu  
					lại thân cây để làm dụng cụ đánh cá và 10% thu lại nhiên liệu gỗ. Sự việc này đã  
					tìm thấy sau người gây ra và nhóm quan sát trở nền đã thân thiết với dân làng hơn.  
					Trước đây, dân làng đã thận trọng về việc báo cáo với sản phẩm gỗ mà họ đã sử  
					dùng thực tế, không muốn quan tâm tới người xâm phạm rừng. Nhưng sự phỏng  
					[Type text]  
					Page 18  
				ECONOMIC VALUATION OF MANGROVES AND THE ROLES OF LOCAL  
					COMMUNITIES IN THAILAND  
					vấn đã tìm thấy đã số dân làng đã tập trung xây dựng gỗ của rừng ngập mặn không  
					phù hợp, và từ bay giờ số lượng thu lại của rừng ngập mặn thì coi như là nhỏ. Hơn  
					nữa, cây là một tương đổi nhỏ và vì thể cho nên không thể sử dụng gỗ, trữ ra với  
					sự dùng trong đồ dùng đánh cá.  
					Tất cả bản thông kế của nhiều sản phẩm trong xã Tho Po thì đã tỏ ra theo  
					mục trong bảng 2.4. Điều khoản sơ bộ đánh giá trị sử dụng trong địa phương đã  
					căn cứ trên 39 trường hợp (gần 35% của người bị cáo) đã báo cáo hoàn toàn với sự  
					thu lại từ nghề đánh cá và sản phẩm không có gỗ trực tiếp từ khu vực rừng ngập  
					mặn .  
					Nhưng chỉ có 28 trừơng hợp được cung cấp số liệu đề tính toàn mức thu  
					nhập mà phát sinh từ rừng ngập mặn. Số liệu mới nhất được căn cứ trên sự hương  
					dẫn quan sát mới đây trong tháng 6. nó tập trung trên địa phương sử dụng sản  
					phẩm gỗ như kết quả từ sự quan sát trước, mà cho thấy sản phẩm gỗ không thể  
					được thu lại tất cả bởi dân làng , một sự nghi ngờ.  
					Từ việc đã tổ chức trong vong nùa gió, một quan sát lớn của toàn bộ xã  
					không thể hương dẫn theo sự quan sát như trước được. Trong sự phỏng vấn 23 chỉ  
					có 10 được cung cấp cho đấy đủ số liệu trên địa phương sử dụng sản phẩm gỗ.  
					Như là thất dựa trên thực tế trươc mặt có thể thực hiện trong điều khiển tính toán  
					toàn bộ giá trị hàng năm. Sự giả thiết thì dựa trên thong tin phỏng vấn hương dẫn  
					trong khi dân làng tụ họp mà trong đó kẻ có chủ trưởng và nhóm quan sát đến  
					tham giá. Sự giả thiết thì 10% giá định trong xã đã thu lại nhiên liệu gỗ; 40% giá  
					định trong xã đã thu lại thân cây sử dụng để làm dụng cụ đánh cá; và 80% giá định  
					trong xã thu lại Mật ông từ rừng ngập mặn. Hơn nữa, giá thuế địa phương đã sử  
					dụng trong việc đánh giá hiện nay có thể giải quyết theo một cách sự thất mà dân  
					làng này đã dùng trong thời gian nghỉ việc của họ với thu lại sản phẩm này. Sự  
					phỏng vấn với dân làng đã cho biết tiền công thuế địa phương là 150 baht (us $ 6)  
					với nam và 120baht (us$4.8) với nữ. Dựa trên sự báo cáo UNEP (1994), giá tiền  
					công trong thời gian nghĩ việc thì tính toán cho 1/3 của tiền công mỗi ngày. Cơ hội  
					[Type text]  
					Page 19  
				ECONOMIC VALUATION OF MANGROVES AND THE ROLES OF LOCAL  
					COMMUNITIES IN THAILAND  
					giá phí tồn trong việc sử dụng tính toán tiền thu vào từ tất cả các sản phẩm của  
					rừng ngập mặn đã dựa trên giá từng giờ.  
					Giá trị sử dụng trực tiếp của rừng ngập mặn với tính trạng của xã Tho Po  
					đã căn cứ trên việc đánh giá này thì trình bày trong bảng 2.5. Giá trị trung bình  
					hàng năm mỗi gía định là 36,98456 baht (us$ 1,479.38). Trong khi giá trị tổng kết  
					hàng năm là 1,405.410.75 baht (us$56.216.43). Giá trị trung bình hàng năm của  
					rừng ngập mặn mỗi giá định so với tiền thu nhập trung bình hàng năm mỗi giá  
					định là cao hơn.  
					Ngoài ra, nó cho thấy rằng trong khi những dân làng này không được thu  
					trực tiếp từ việc nuôi tôm , họ cũng thất bại về thu nhập sản xuất từ rừng ngập mặn  
					khi mà rừng đã được khai hoang. Đây có thể cung cấp vài động cơ cho họ để phản  
					đối lại sự xâm chiếm của rừng ngập mặn bằng việc nuôi tôm.  
					Mục đích quan trọng của sự nghiên cứu nay là so sánh với 2 loại khác nhau  
					của việc sử dụng đất rừng ngập mặn và thương nghiệp nuôi tôm, theo sử dụng sự  
					phân tích giá lợi ích, giá trị lơì thuần hiện này của lợi nhuận mỗi rai từ mỗi người  
					được sử dụng đất thì tính toán theo (chương 3). Lợi nhuận mỗi rai của rừng ngập  
					mặn cũng gồm có giá trị sử dụng trực tiếp trong điều kiện của địa phương sử dụng  
					giá trị mỗi rai. Với mục đích này có 3 trường hợp của giá trị sử dụng trong địa  
					phương được giả tihiết như sau:  
					1.) Trường hợp thực tế của xã Tho Po  
					2.) Sự tổng quát hơn trường hợp của người được bảo hộ rừng ngập mặn  
					trong địa phương mà trong mỗi giá định nhân được lới tức chút ít từ rừng ngập  
					mặn.  
					3.) Giống như trường hợp 2 nhưng lới tức chính gồm có lợi nhuận từ than  
					củi. Thực ra trong trường hợp của xã Tho Po, không giá định naò kiêm được thu  
					nhập từ rừng ngập mặn. Rừng thì không sinh lợi như lúc trước khi nó bị suy thoái,  
					mặc dù nó đàng được phục hồi (chương 2.2.1). mô tả trường hợp 2, một xã phụ  
					thuộc vào rừng ngập mặn với rừng sinh lợi nhiều hơn. Từ khi có số liệu không  
					[Type text]  
					Page 20  
				ECONOMIC VALUATION OF MANGROVES AND THE ROLES OF LOCAL  
					COMMUNITIES IN THAILAND  
					thực tế trường hợp trên, sự giả thuyết đã tạo nên rằng mỗi gia đình kiếm được mức  
					thu nhập hàng năm gần bằng trong trường hợp của xã Tha Po trên một xác nhận  
					căn bản. Giá trị sử dụng trong địa phương mỗi rai mỗi năm đã được tính toán  
					(bảng 2.6 ). Bình thường, sinh lợi rừng nhập mặn cũng là nguồn gốc tốt của than  
					củi. Mức thu nhập trung bình hàng năm của than củi kiếm được từ rừng ngập mặn  
					được ước lượng khoảng 2299.18 baht (US $91.97). Giá trị sử dụng mỗi rai mỗi  
					năm trong trường hợp với sinh lợi từ than củi đã được tính toán và trình bày trong  
					bảng 2.6.  
					2.2.3. Giá trị trong điều kiện kết hợp với nghề đánh cá :  
					Trong nghiên cứu này, giá trị sử dụng gián tiếp của rừng ngập mặn trong  
					điều kiện bảo hộ với nghề đánh cá đã được đánh giá theo áp dụng của Ellis –  
					Fisher- Freeman( như mô tả trong chương 2.1) mà giá trị tập trung là xác định  
					bằng một thay đổi trợ cấp xã hội (cả trong điều kiện của người tiêu dùng và nhà  
					sản xuất thặng dư).  
					Haitrường hợp của chế độ quản lý cho nghề đánh cá đã giả thiết: tính trạng  
					tự do tiếp cận và điều khiển nghề đánh cá theo cộng đồng địa phương. Trong  
					trường hợp đầu tiên, một tính trạng tự do tiếp cận , giá trị của rừng ngập mặn trong  
					điều kiện bảo hộ của nghệ đánh cá đã xác định bằng một thay đổi chỉ trong người  
					tiêu dùng thặng dư. Chế độ quản lý nghề đánh cá thì tương tự chế độ sở hữu quản  
					lý tư nhân trong nguyên văn của Ellis và Fisher Model (xem chương 2.1). giá trị  
					của rừng ngập mặn trong điều kiện bảo hộ của nghề đánh cá đã đánh giá bằng thay  
					đổi trong cả người tiêu dùng và nhà sản xuất thặng dư. Trong trường hợp của xã  
					Tha Po thì không hoàn thành trong tính trạng tự do tiếp cận, mặc dù cộng đồng  
					không có điều chỉnh việc đánh cá, không người nào vào khu vực đánh cá của họ.  
					Giá trị sử dụng gian tiếp của rừng ngập mặn trong điều kiện bảo hộ của  
					nghề đánh cá đã được đánh giá.Số liệu thu gom:  
					Loại rừng ngập mặn quan trọng trong khu vực nghiên cứu đã được xác  
					nhận dựa trên quan sát hướng dẫn vào ngày 19-21 tháng 6.1996. các loại này đã  
					[Type text]  
					Page 21  
				ECONOMIC VALUATION OF MANGROVES AND THE ROLES OF LOCAL  
					COMMUNITIES IN THAILAND  
					được xếp vào trong 2 loại chính: cá đáy và loài tôm cua (i.e. cua và tôm). Nhiều  
					dụng cụ đánh cá đã được tìm thấy và thời gian dùng để đánh cá vớinhững dụng cụ  
					này đã được ghi nhân và sử dụng thay thế sức người. Số liệu chi tiết tiền phí tổn  
					của việc đánh cá đã được thu gom. Tuy nhiên đầu tiên nó đã không thể thu thập số  
					liệu từ khu vực địa phương với tổng số lượng đánh cá, số dụng cụ của nghề đánh  
					cá và khu vực của rừng ngập mặn. Bởi vậy, số liệu thực nghiệm dùng trong sự  
					đánh giá này đã dựa trên số liệu thu thấp lần thứ nhì theo Bộ Thuỷ sản (DOF) và  
					RFD của từng khu vực đánh cá trong vùng nghiên cứu.  
					Sự nghiên cứu đối phó những vấn đề khác nhau với số liệu thứ 2. Bộ Thuỷ  
					Sản đã bắt đầu thu thấp số liệu trêh tỉ lệ nhỏ của nghề đánh cá vào năm 1983  
					nhưng số liệu tiên dụng chậm nhất là vào năm 1993. Tổng số lượng đánh cá ghi  
					chép đã đánh giá thấp hơn. Số liệu xác thực trên số dụng cụ đánh cá là xấu hơn từ  
					sự tính toán dụng cụ thay đổi một cách bừa bãi. Số liệu này cũng bị đánh giá thấp  
					hơn. Dựa trên sự kiểm tra nghề đánh cá biển (đã hướng dẫn 10 năm một lần bắt  
					đầu năm 1985), số ghe thuyền đánh cá ghi nhận là chỉ 1/10 của sự tính toán kiểm  
					tra thực tế ghi chép trong năm tương tự(1985). Nghề đánh cá biển của 1995 thì  
					vừa mới phát triển. Như vậy, số liệu sử dụng cho sự tính toán sức lao động con  
					người trong thực nghiệm nghiên cứu này đã tuỳ theo hướng giải quyết.  
					Dựa trên sự quan sát hướng dẫn tháng 6, phân loại chính của dụng cụ đánh  
					cá sử dụng trong khu vực nghiên cứu là “gill net”. “Động lực đánh cá” đã xác định  
					trong nghiên cứu hiện nay là số giờ đã dùng trong đánh cá với những dụng cụ này  
					mỗi năm. Trong thời điểm này, từ “gill net” sẽ được dùng như dụng cụ đánh cá  
					căn bản, không cần có tiêu chuẩn hoá đơn vị của động lực đánh bắt cá.  
					Để nhận được thông tin một loạt thời gian đối với động lực đánh bắt cá, số  
					trung bình đã dùng theo giờ trên việc đánh cá với mỗi người đã dùng dụng cụ đánh  
					cá mỗi năm thì được tính toán dựa trên số liệu phỏng vấn mà thu được trong  
					khiquan sát cuối cùng với người đánh cá. Giá trị được trình bày trong bảng 2.7 .  
					[Type text]  
					Page 22  
				ECONOMIC VALUATION OF MANGROVES AND THE ROLES OF LOCAL  
					COMMUNITIES IN THAILAND  
					Tổng cộng động lực đánh cá mỗi năm là số dụng cụ đánh cá dược ghi chép  
					mỗi năm thì được so sánh với số trung bình mà đã dùng theo giờ trên việc đánh cá  
					với mỗi dụng cụ đánh cá mỗi năm. Mặc dù khu vực nghiên cứu nằm trong vị trí  
					khu vực đánh cá 3, số liệu đã dùng bao gồm tất cả trong 5 khu vực đánh và nó  
					hoàn toàn tốt hơn khi có thể thu được số liệu nhiều cho econometric trên việc đánh  
					giá tham số sản xuất.  
					Kết quả thực nghiệm :  
					- Sự cố gắng để có thể đánh giá ham số, sản xuất Cobb-Douglas dựa trên  
					số liệu đã thu được bởi cả demersal và loài tôm cua :  
					X  f (E, A)  mEa Ab  
					- A Least Square Estimation of the function :  
					ln X  ln m  aln E bln A  
					Kết quả sản phẩm đã trình bày trong bảng 2.8 và 2.9 .  
					Tính trạng tự do tiếp cận  
					Việc đánh giá dưới tính trạng tự do tiếp cận việc đánh giá, một người đánh cá  
					được bán sản phẩm đánh cá với giá bằng chi phí trung bình :  
					(1a)  
					b
					1
					(  
					 cm a A ) X  
					C
					
					c, X, A  
					
					a
					a
					P  AC   
					X
					Sau khi nhận được tất cả thông số, a, b và m, trên chi phí trung bình, ham  
					số có thể đánh giá với trường hợp của cá demersal và loài tôm cua, tương ứng :  
					AC = 2.0363 105 X0.723467A1.26701 (cá đáy)  
					AC = 2.6191 102 X0.090366A-0.20884 (loài tôm cua)  
					[Type text]  
					Page 23  
				ECONOMIC VALUATION OF MANGROVES AND THE ROLES OF LOCAL  
					COMMUNITIES IN THAILAND  
					Quản lý nghề đánh cá  
					Trong trường hợp nghiên cứu nghề đánh cá, như dưới chế độ quản lý sở  
					hữu tư nhân, một người đánh cá đã bán sản phẩm đánh cá với giá bằng (MC).  
					(1a)  
					b  
					1
					(
					C  
					X  
					c
					 m a A a) X  
					a
					P  MC   
					a
					Sau thay thế tất cả thông số đã biết trên hàm số chi phí biên có thể đánh giá  
					với trường hợp của cá đáy và loài tôm cua, tương đương với nhau (tương ứng)  
					MC =2.0363 105 X0.723467A1.26701 (cá đáy)  
					MC = 2.6191 102 X0.090366A-0.20884 (loài tôm cua)  
					Trong việc nghiên cứu này, hàm số đã dùng thì cần phải giải quyết với 5  
					phương thức. Tất cả đường biểu thị của hàm số phải đi qua số liệu đã được quan  
					sát trên 1993 (dựa vào một trường hộp) thì có giá bằng 37.81 baht/kg và thu hoạch  
					được 1,545.000 kg với cá đáy và với vấn đề giá bằng 64.49 baht/kg và thu hoạch  
					được 1.917.000 kg với loài tôm cua. Từ không có được cung cấp thông tin mới  
					cho việc nghiên cứu này mà cần phải thực tế để có thể dùng được hàm số. Sự giải  
					quyết hàm số đã được tạo ra dựa trên sự chọn lựa khác nhau thì cần phải tính mềm  
					mỏng -10, -2,-1, -0,5 và -0,1 với sự thủ tính chất.  
					Giá trị sử dụng gian tiếp của rừng ngập mặn trong điều kiện bảo hộ nghề  
					đánh cá (cả cá đáy và tôm cua) đã được đánh giá theo một tính trạng mà đã được  
					thiết hại hết 7000 rai của rừng ngập mặn trong xã Tho Po, đã cho 2 giải đoạn khác  
					nhau trước và sau khi bị thiết hại của khu vực rừng. Liên kết giá cân bằng và mực  
					số lượng có thể giải quyết dưới sự chọn lựa 5 hàm số khác nhau (bảng 2.10 và  
					2.11)  
					[Type text]  
					Page 24  
				ECONOMIC VALUATION OF MANGROVES AND THE ROLES OF LOCAL  
					COMMUNITIES IN THAILAND  
					Dựa trên việc tính toán giá cân bằng và số lượng trong bảng 2.10và 2.11, sự  
					thay đổi thông tin trong thặng dư người tiêu dùng, như đã mô ta theo khu vực A+B  
					trong hình 2.4 đã được tính toán. Sự tính toán này đối với giá trị rừng ngập mặn  
					trong tự do tiếp cận. Với việc quản lý chế độ nghề đánh cá, một giá trị giống nhau  
					như đã đánh giá theo sự thay đổi thông tin trong cả thặng dư người tiêu dùng và  
					thặng dư người sản xuất đã mô ta theo khu vực B+C trong hình 2.4 cũng được tính  
					toán. Bảng 2.12 đã làm sáng tỏ kết quả cuối cùng với cả cá đáy và loài tôm cua.  
					Từ kết quả, nó có thể quan sát mà đã định rõ giá trị theo sự thay đổi trong  
					trường hợp đã quản lý nghề đánh cá con nhất thiết không phải là cao hơn với tình  
					trạng tự do tiếp cận. Hình 2.4 đã cho thấy rằng nó có thể tính được với khu vực  
					A+B lớn hơn khu vực B+C khi đường cong đã xéo dốc đứng (không dễ uốn), như  
					vậy có thể tính được khi nó phản ứng rất chậm, ở dưới tình trạng tự do tiếp cận, lợi  
					ích trong thặng dư người tiêu dùng đã kết hợp với sự giảm giá trong giá sản phẩm  
					đánh cá có thể là một lợi ích lớn hơn trong cả thặng dư người tiêu dùng và thặng  
					dư người sản xuất trong trường hợp quản lý nghề đánh cá, bởi vì đây là trường hợp  
					lợi ích cuối trong thặng dư người tiêu dùng that sự di chuyển từ thặng dư nhà sản  
					xuất.  
					Có thể chú ý với giá trị rừng ngập mặn đã được đánh giá này thì trong hình  
					dạng nguồn cung cấp lợi thu nhập hàng năm mỗi rai trong điều kiện bảo hộ với  
					nghề đánh cá. Bề ngoài không được mô tả giá trị tài nguyên của rừng ngập mặn.  
					Mặc dù giá trị được phát sinh mô tả, nó cũng vẫn được tính là quá thấp. Dựa trên  
					Q  
					A  
					hồ sơ của Freeman (1991), sản phẩm biên của rừng ngập mặn, , có thể tính toán  
					từ biểu thức b QA  Q ( khi Q là số bắt và A là hàm số sản xuất Cobb- Douglas  
					A  
					trong khu vực rừng ngập mặn). Trong sự nghiên cứu hiện nay, thông số b đã được  
					đánh giá( từ econotrics) với 0.73515 đối với cá đáy và 0.19153 đối với tôm  
					cua(xem bảng 2.8 và 2.9 ) .  
					Q  
					A  
					Trong trường hợp này,  
					thì chỉ tính với 4.12 đối với cá đáy và 2.77 đối  
					với tôm cua, đã tương đối với nhau, đây có nghĩa là trong mỗi rai của sản xuất  
					[Type text]  
					Page 25  
				ECONOMIC VALUATION OF MANGROVES AND THE ROLES OF LOCAL  
					COMMUNITIES IN THAILAND  
					rừng ngập mặn vào khoảng 7 kg sản phẩm đánh cá trong sự so sánh với việc khảo  
					sát khác mà trong đó thông tin về việc thay đổi từ 50 – 120 kg trong mỗi rai(Lal  
					1990, Bailey 1988). Sự đánh giá thấp có thể do thực tế mà số liệu đã lấy được dưới  
					việc ghi chép. Hơn nữa, nó cũng quan trọng để lưu ý tới việc đánh giá giá trị sử  
					dụng gián tiếp của rừng ngập mặn trong điều kiện bảo trợ nghề đánh cá với việc  
					nghiên cứu này đã dựa trên một mô hình mà không để ý suy xét tới việc đánh giá  
					sinh vật học nhưng với bề ngoài nghiên cứu, nó có thể lý thú làm cho người ta chú  
					ý tới việc áp dụng mô hình của Maler và Barbier – Strand như đánh giá giá trị.  
					2.2.4. Giá trị dịch vụ môi trƣờng khác  
					Giá trị sử dụng gián tiếp khác đã tính trong việc nghiên cứu này gồm có giá  
					trị trong điều kiện bảo vệ bờ biển và sự ổn định và giá trị trong điều kiện tịch thu  
					carbon.  
					 Sự ổn định và sự bảo vệ bờ biển :  
					Chức năng sinh thái quan trọng khác nữa của rừng ngập mặn thì phục vụ  
					như hàng cây che gió và cây đã dùng để chống tàu thuỷ. Trong trường hợp này, sự  
					thay thế hệ thống chi phí đã được đồng hoá tới việc đánh giá lợi ích thuần của  
					rừng ngập mặn đối với mục đích này, tuỳ theo lĩnh vực hải cảng của Bộ Giao  
					Thông và Vận Tải, những khu vực khác dọc đi dài theo bờ biển mà không có bao  
					phủ từ rừng ngập mặn trải qua nổi sóng gió làm xói mòn và cần phải xây dựng  
					đập. Đơn chi phí của việc xây dựng loại đập này là 35.000 baht trong mỗi mét bờ  
					biển, cùng lúc đó sự quyết tâm nội các ngày 15 tháng 12.1987 đã tuyên bố rừng  
					ngập mặn với bề rộng ít nhất 75 mét dọc theo bờ biển có thể duy trì bảo vệ bờ  
					biển. Đây thì dựa trên thông tin sinh thái mà đã tỏ ra có hiệu quả với sự ổn định bờ  
					biển, một chút ít bề ngang 75 mét sâu của rừng ngập mặn thì cần phải dọc theo bờ  
					biển. Dù rằng định lý không thể bắt buộc và cần phải xây dựng đập để thay thế  
					rừng ngập mặn đã mất theo dọc bờ biển.  
					Từ thông tin trên, sự thay thế chi phí để bảo vệ ven biển khi có sự tàn phá  
					vùng đất rừng ngập mặn, một rai với 75 mét bề ngang dài theo bờ biển thì vào  
					[Type text]  
					Page 26  
				ECONOMIC VALUATION OF MANGROVES AND THE ROLES OF LOCAL  
					COMMUNITIES IN THAILAND  
					khoảng 746,666.7 baht(US$ 29,866.67). Giá trị hàng năm( đi qua kế hoạch đời  
					sống 20 năm12) do đó 37,333.3 baht (US$ 1,493.33)mỗi rai. Tuỳ theo lĩnh vực hải  
					cảng, gần 30% của khu vực bờ biển phải trải qua nổi sóng gió, xói mòn và cần  
					phải xây dựng đập. Do đó sự nghiên cứu sẽ nhận được12,444 baht(US$ 479.63)  
					mỗi rai bằng giá trị quản lý rừng ngập mặn trong điều kiện bảo vệ bờ biển. Hơn  
					nữa nó có thể được chú ý mà có một xu hướng để thay thế chi phí trong trường  
					hợp này đã đánh giá quá cao từ khi được xây dựng đập này với việc bảo vệ bờ  
					biển không được sử dụng tới khu vực bãi biển nhiều, nó có thể sử dụng khi nó đã  
					để lại ưới sự bảo vệ rừng ngập mặn, chi phí cơ hội của bãi biển này thì không có  
					nhận vào trong việc đánh giá.  
					Sự tịch thu carbon :  
					Khu vực rừng nhiệt đới gồm có khu vực rừng ngập mặn, có vai trò quan  
					trọng trong việc kiểm soát carbon dioxide trong không khí toàn cầu băng qua quá  
					trình sự quang hợp và sự hấp thu bằng cách hấp thụ CO2 từ thực vật và chứa CO2  
					trong nhiều sinh vật khác. Do đó, nhiều chức năng sinh thái khác nữa của rừng  
					ngập mặn đã làm hạ thấp carbon. Phương pháp tiếp cận chúng trong tiềm năng  
					đánh giá một khu rừng trong việc tịch thu carbon cần phải tính toán tổng sinh vật  
					chung mỗi hectare một mật độ sinh vật chung và phải áp dụng cho thích hợp hơn  
					để trở thành yếu tố nhận được carbon như nhau. Như kết quả đã dự phòng bởi  
					Dr.Pipat Pattnapolpaiboon có thể đặt trong phụ lục A.  
					Trong việc đánh giá một giá trị tiền tệ của cung thác carbon theo rừng cây,  
					theo giá quốc tế mỗi một số lượng carbon đã được giảm giá thì sẽ có thực dụng.  
					Những giá này thay đổi từ $150 mỗi tấn carbon(dựa trên tỉ lệ thuế trong  
					Norway)tới $5 mỗi tấn carbon(dựa trên sự đánh giá lợi ích carbon kết hợp với việc  
					trồng cây trong nước Argentina đã chú ý bởi Sedjo và et.al trong 1995). Với sự  
					nghiên cứu này, được đồng hoá giá 141.7 baht hoặc 5.67 US mỗi tấn carbon (dựa  
					trên báo cáo ngân hàng thế giới 1995 trên sự nghiên cứu rừng ngập mặn trong  
					Malaysia theo Kumari). Giá trị sử dụng gián tiếp của rừng ngập mặn trong điều  
					[Type text]  
					Page 27  
				ECONOMIC VALUATION OF MANGROVES AND THE ROLES OF LOCAL  
					COMMUNITIES IN THAILAND  
					kiện bám víu carbon cho trường hợp này sẽ là 341.89 baht hoặc US$13.68 mỗi rai  
					mỗi năm. Tất cả toàn bộ chi tiết này, đã được đánh giá giá trị kinh tế của rừng  
					ngập mặn trong sự nghiên cứu này thì đã thảo luận trong chương tiếp theo.  
					3.0 PHÂN TÍCH LỢI ÍCH CHI PHÍ (CBA) VỚI PHƢƠNG THỨC SỬ  
					DỤNG ĐẤT ĐAI :  
					Rừng Ngập Mặn Vs Thƣơng Mại Nuôi Tôm  
					Phân tích lợi ích chi phí (CBA) có thể xem xét hướng dẫn giả thuyết mà  
					“sự chuyển đổi hoàn toàn của khu vực rừng ngập mặn vào trong thương mại nuôi  
					tôm có thể không đánh giá. Trong trường hợp này, giá trị thuận hiện nay thì lợi ích  
					thuận mỗi rai rừng ngập mặn thì đã được tính toán và đã được so sánh mà đã sử  
					dụng một phương thức trong trường hợp này một sự trở thành nơi nuôi tôm. Hơn  
					nữa, từ việc nghiên cứu đã được bỏ qua sự chọn lựa một cách hoàn toàn và không  
					sử dụng giá trị rừng ngập mặn. Sự bỏ qua giả thuyết đã thực hiện cẩn thận, theo  
					quan niệm lợi ích của rừng ngập mặn hiện nay thì kém hơn lợi ích nuôi tôm. Sự  
					phân tích đã nhân vào trong việc đánh giá cả khu vực tư nhân quản lý và quan  
					điểm của khu vực, kết quả đó thì đã kỹ lưỡng như sau :  
					3.1. Phân tích lợi ích chi phí từ quan điểm tƣ nhân (phân tích tài chính)  
					:
					Phân tích lợi ích chi phí đã được hướng dẫn để xác định hoặc biến đổi rừng  
					ngập mặn vào trong thương mại nuôi tôm thì có thể tồn tại từ quan điểm tư nhân.  
					Kế hoạch cuộc sống của thương mại nuôi tôm thì bình thường là 5 năm.  
					Sau thời gian này, chăn nuôi tôm đã gây khó khăn bởi đã giảm sản xuất quá mạnh  
					và tệ nạn. Trong thời gian này, người nuôi tôm thường hay bỏ rơi cái ao nuôi tôm  
					của họ và đi tìm một nơi mới khác. Mặc dù vốn đầu tư đầu tiên(trong điều kiện chì  
					có một chi phí nhất định) trong năm đầu tiên thì rất cao với 60,000 baht mỗi  
					rai(Rawat 1994) tính tất cả toàn bộ lợi nhuận thì cũng lớn mà nó trả lại lợi ích rất  
					cao cho công việc kinh doanh khắp nơi trong kế hoạch cuộc sống(bảng 3.3). Với  
					[Type text]  
					Page 28  
				ECONOMIC VALUATION OF MANGROVES AND THE ROLES OF LOCAL  
					COMMUNITIES IN THAILAND  
					sự nghiên cứu này,NPV (giá trị lợi nhuận hiện nay) lợi nhuận thuần mỗi rai của  
					một thương mại nuôi tôm trong vòng một thời gian 5 năm có thể so sánh với lợi  
					ích của rừng ngập mặn. Sự phân tích tính chất cũng dẫn tới việc thay đổi với tỉ lệ  
					sẽ giảm đi, kết quả như sau:  
					3.1.1.Rừng ngập mặn :  
					Trong trường hợp một tính trạng tự do tiếp cận, lợi nhuận thuần từ rừng ngập  
					mặn(từ một tương lai cá nhân cho cộng đồng địa phương chỉ nhận từ một giá trị sử  
					dụng trực tiếp trong điều kiện của địa phương sử dụng (bảng 3.1). Hơn nữa, trong  
					trường hợp quản lý nghề đánh cá, lợi nhuận thuần cũng gồm có chia ra giá trị sử  
					dụng gián tiếp của rừng ngập mặn trong điều kiện kết hợp với nghề đánh cá,  
					nhưng không phải tất cả giá trị đã được bắt lấy bởi cộng đồng địa phương. Chỉ có  
					một giá trị đã được đánh giá trong điều kiện thay đổi thặng dư, người sản xuất  
					hoặc thuê người đánh cá thì có liên quan trong trường hợp này(bảng 2).Nó thì chắc  
					chắn mà NPVs mỗi rai của rừng ngập mặn trong tất cả trường hợp thì ít hơn nhiều  
					NPVs từ biến thành khu vực vào trong thương mại nuôi tôm. Ý nghĩa này từ quan  
					điểm cá nhân nó thì đánh giá với việc biến đổi rừng ngập mặn vào trong thương  
					mại nuôi tôm. Hơn nữa, vấn đề phức tạp hơn trong trường hợp xã Pha Po. Từ vốn  
					đầu tư đầu tiên, điều kiện cần thiết cho một thương mại nuôi tôm thì phải cao hơn,  
					dân làng địa phương có thể không đủ điều kiện để kinh doanh. Như đã thảo luận  
					trong chương 4, chỉ có một vài trại là riêng của địa phương. Hơn nữa, trong trường  
					hợp nghề đánh cá của xã Tha Po thì không có tình trạng tự do tiếp cận một cách  
					hoàn toàn. Mặc dù có qui tắc không rõ ràng hoặc điều lệ qui tắc đã được để lại cho  
					cộng đồng với hạn chế đánh cá trong khu vực, người đánh cá từ bên ngoài thì  
					không cho phép. Người đánh cá trong cộng đồng có thể bắt đóng thuế một số. Cho  
					nên, khi tự chủ hãng buôn biến đổi rừng thành những trại nuôi tôm, không chỉ lả  
					sự thất bại, thắng lợi của cộng đồng địa phương từ sự chuyển đổi và nó sẽ luôn  
					luôn lấy đi lợi nhuận thuần từ rừng ngập mặn trong điều kiện kết hợp với nghề  
					đánh cá như đã được đánh giá theo sự thụt xuống trong thặng dư người sản xuất.  
					[Type text]  
					Page 29  
				ECONOMIC VALUATION OF MANGROVES AND THE ROLES OF LOCAL  
					COMMUNITIES IN THAILAND  
					3.1.2. Thương mại nuôi tôm :  
					Giá trị lợi nhuận thuần hiện nay mỗi rai (từ một quan điểm cá nhân) của  
					thương mại nuôi tôm thì cao nhất là 97,104.95 baht (US 3,734.80) (xem bảng 3.3).  
					con số này thì cao hơn nhiều với NPV cao mỗi rai của rừng ngập mặn.(Giá trị lợi  
					nhuận thuần hiện nay trong trường hợp quản lý nghề đánh cá là 17,327.55 baht  
					hay US 666,42). (xem bảng 3.2). Giải thích sự giúp đỡ này có tác động mạnh mẽ  
					về tỉ giá của sự xâm lấn rừng ngập mặn trong vài năm qua. Nó có thể trở thành  
					điểm chú ý, tuy nhiên, sự phân chia thu nhập đó là quan trọng trong trường hợp  
					này. Mặc dù thương mại nuôi tôm về mặt tài chính thì có thể thực hiện được, dân  
					làng địa phương không thể theo kịp. Hơn nữa,sự chuyển đổi của rừng ngập mặn  
					sang thương mại nuôi tôm từ sự giao tiếp quan điểm có thể trở thành một vấn đề  
					khác như đã thảo luận trong chương sau.  
					3.2. Phân tích lợi ích chi phí từ sự giao tiếp quan điểm (phân tích các  
					hoạt động kinh tế)  
					Từ ý kiến cá nhân, làm biến đổi rừng ngập mặn sang thương mại nuôi tôm  
					thì về mặt tài chánh có thể thành tựu được. Hơn nữa, từ sự giao tiếp quan điểm,  
					chi phí dùng bên ngoài cũng đã được tính toán; gồm có chi phí về làm dơ bẩn ao  
					tôm. Một cách quan trọng hơn nữa, có vấn đề về việc bỏ mặt ao tôm,sau khi tự chủ  
					hãng buôn rời đi từ khu vực. Khu vực thoái hoá chất lượng tồi này vào trong đất  
					hoang cằn cỗi, bởi vì đất đã trở thành đất chua có nhiều acid và cũng khó khăn đối  
					với mục đích làm nông nghiệp. Trong sự nghiên cứu này, sự giả thuyết đã thực  
					hiện sự so sánh với NPV mỗi rai của rừng ngập mặn với trại nuôi tôm. Sự giả  
					thuyết thì sau khi rừng ngập mặn đã chuyển biến sang trại nuôi tôm với thời gian 5  
					năm, khu vực sẽ phục hồi rừng lại. Đây sẽ cộng thêm thời gian 15 năm nữa sẽ  
					phục hồi rừng mới, trong trường hợp này phải tiến bộ 20 năm với kế hoạch cuộc  
					sống.  
					3.2.1. Rừng ngập mặn:  
					[Type text]  
					Page 30  
				Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 30 trang mẫu của tài liệu "Giá trị kinh tế của rừng ngập mặn và những vai trò của cộng đồng địa phương trong sự gìn giữ tài nguyên thiên nhiên: Nghiên cứu tình huống của Surat Thani, phía Nam, Thái Lan", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
        
        
        File đính kèm:
gia_tri_kinh_te_cua_rung_ngap_man_va_nhung_vai_tro_cua_cong.pdf

