Đề tài Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến HST đô thị. Mô hình sinh thái nhằm ứng phó, ngăn ngừa ảnh hưởngcủa biến đổi khí hậu
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
Trường Đại Học Sư Phạm
BÀI TẬP CUỐI KÌ
Đề tài:
Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu
đến HST đô thị. Mô hình sinh thái
nhằm ứng phó, ngăn ngừa ảnh
hưởngcủa biến đổi khí hậu.
GVHD: TS Đinh Thị Phương Anh.
HVTH: Phạm Thị Quỳnh Thảo.
Lớp : Cao học Sinh thái học 2/2009 - 2011
Đà Nẵng, tháng 12/2010
Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến
HST đô thị. Mô hình sinh thái nhằm
ứng phó, ngăn ngừa ảnh hưởng của
biến đổi khí hậu.
MỤC LỤC
A. Đặt vấn đề .........................................................................................................2
B. Nội dung ...........................................................................................................3
I. Biến đổi khí hậu là gì?........................................................................................3
II. Nguyên nhân gây biến đổi khí hậu ...................................................................4
III. Hậu quả của biến đổi khí hậu...........................................................................9
3.1. Các hệ sinh thái bị phá hủy .............................................................................9
3.2. Mất đa dạng sinh học ....................................................................................10
3.3. Chiến tranh và xung đột ...............................................................................11
3.4. Các tác hại đến kinh tế .................................................................................12
3.5. Dịch bệnh......................................................................................................13
3.6. Hạn hán.........................................................................................................14
3.7. Bão lụt...........................................................................................................15
3.8. Những đợt nắng nóng gay gắt.......................................................................15
3.9. Các núi băng và sông băng đang teo nhỏ......................................................16
3.10. Mực nước biển đang dâng lên.....................................................................16
IV. Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến HST đô thị. .........................................18
4.1. Hệ sinh thái đô thị là gì? ...............................................................................18
4.2. Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến các HST đô thị ..................................19
4.2.1. Nguy cơ mất nơi ở do mực nước biển dâng cao và hiện tượng sa mạc hóa.20
4.2.2. Ngập lụt ngày càng nghiêm trọng hơn.......................................................21
4.2.3. Hiệu ứng đảo nhiệt đô thị...........................................................................23
- 1 -
Học viên thực hiện: Phạm Thị Quỳnh Thảo. Lớp: CH STH tháng 2/2009 – 2010.
4.2.4. Mưa acid phá hủy các công trình – kiến trúc đô thị...................................25
4.2.5. Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến con người ........................................26
V. Mô hình sinh thái nhằm ứng phó, ngăn ngừa ảnh hưởng của biến đổi khí hậu.
5.1. Sử dụng hệ thống cây xanh...........................................................................33
5.2. Xây dựng đô thị sinh thái..............................................................................34
5.3. Khuyến khích sử dụng và phát triển năng lượng tái tạo ...............................38
C. KẾT LUẬN.....................................................................................................40
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- 2 -
Học viên thực hiện: Phạm Thị Quỳnh Thảo. Lớp: CH STH tháng 2/2009 – 2010.
A. Đặt vấn đề
Trong quá trình tiến hóa và phát triển, con người luôn phải dựa vào các yếu
tố sẵn có trong tự nhiên. Con người với tư cách là một vật thể sống, một yếu tố của
sinh quyển đã tác động trực tiếp vào môi trường. Các hệ sinh thái tự nhiên hoặc
dần chuyển thành hệ sinh thái nhân tạo, hoặc bị tác động của con người đến mức
mất cân bằng và suy thoái. “Báo cáo của Cơ quan Hàng không và Vũ trụ Hoa Kỳ
(NASA) tháng 10/2006 cho biết, hiện tượng băng tan ở Greenland đạt tốc độ 65,6
kilômét khối, vượt xa mức tái tạo băng 22,6 kilômét khối một năm từ tuyết rơi.
Trung tâm Hadley của Anh chuyên nghiên cứu và dự đoán thời tiết cũng dự đoán:
1/3 hành tinh sẽ chịu ảnh hưởng của hạn hán nếu việc thay đổi khí hậu không được
kiểm soát. Những kết quả nghiên cứu được công bố vào tháng 9/2006 cho thấy,
nhiệt độ thế giới đã tăng lên với tốc độ chưa từng có trong vòng ít nhất 12.000
năm qua. Chính điều này đã gây nên hiện tượng Trái đất nóng lên trong vòng 30
năm trở lại đây. Các nhà khoa học cho rằng: thế kỷ vừa qua, nhiệt độ trung bình
của Trái đất đã tăng thêm 1oC do việc tích lũy các chất cácbon điôxít (CO2),
mêtan (CH4) và các khí thải gây hiệu ứng nhà kính khác trong không khí (như
N2O, HFCs, PFCs, SF6) - sản phẩm sinh ra từ việc đốt nhiên liệu hóa thạch trong
các nhà máy, phương tiện giao thông và các nguồn khác.Những hiện tượng trên
đều do biến đổi khí hậu gây nên.
Biến đổi khí hậu được gọi là toàn cầu vì nó diễn ra ở hầu như mọi nơi trên
thế giới. Đặc biệt, Việt Nam đứng thứ 5 trong danh sách các nước bị ảnh hưởng
bởi khí hậu toàn cầu. Vị trí địa lý của Việt Nam khiến Việt Nam rất dễ bị tổn
thương trước những biến đổi khí hậu cả về hình thái khí hậu khi mực nước biển
tăng, lẫn diện tích đất canh tác sẽ bị thu hẹp. Trong các hệ sinh thái dễ bị tổn
thương thì hệ sinh thái đô thị đang đứng trước nguy cơ đó. Vậy biến đổi khí hậu đã
ảnh hưởng như thế nào đến thế giới, cụ thể hơn đến Việt Nam để từ đó con người
có thể đưa ra những mô hình sinh thái, những giải pháp nhằm ứng phó với những
biến đổi đó. Câu hỏi nêu ra này chính là lí do để tôi chọn tiểu luận “Ảnh hưởng
- 3 -
Học viên thực hiện: Phạm Thị Quỳnh Thảo. Lớp: CH STH tháng 2/2009 – 2010.
của biến đổi khí hậu đến HST đô thị. Mô hình sinh thái nhằm ứng phó, ngăn
ngừa ảnh hưởng của biến đổi khí hậu”. Nếu không có những biện pháp phù hợp
và hiệu quả để giảm thiểu tác hại của biến đổi khí hậu, hậu quả sẽ là khôn lường.
B. Nội dung
I. Biến đổi khí hậu là gì?
Định nghĩa:
"Biến đổi khí hậu trái đất là sự thay đổi của hệ thống khí hậu gồm khí quyển, thuỷ
quyển, sinh quyển, thạch quyển hiện tại và trong tương lai bởi các nguyên nhân tự
nhiên và nhân tạo".
Môi trường trước đây
Môi trường hiện tại
“Biến đổi khí hậu là những biến đổi trong môi trường vật lý hoặc sinh học gây ra
những ảnh hưởng có hại đáng kể đến thành phần, khả năng phục hồi hoặc sinh
sản của các hệ sinh thái tự nhiên và được quản lý hoặc đến hoạt động của các hệ
thống kinh tế - xã hội hoặc đến sức khỏe và phúc lợi của con người”.(Theo công
ước chung của LHQ về biến đổi khí hậu).
- 4 -
Học viên thực hiện: Phạm Thị Quỳnh Thảo. Lớp: CH STH tháng 2/2009 – 2010.
II. Nguyên nhân gây biến đổi khí hậu.
Nguyên nhân chính làm biến đổi khí hậu Trái đất là do sự gia tăng các hoạt
động tạo ra các chất thải khí nhà kính, các hoạt động khai thác quá mức các bể hấp
thụ khí nhà kính như sinh khối, rừng, các hệ sinh thái biển, ven bờ và đất liền
khác. Nhằm hạn chế sự biến đổi khí hậu, Nghị định thư Kyoto nhằm hạn chế và ổn
định sáu loại khí nhà kính chủ yếu bao gồm: CO2, CH4, N2O, HFCs, PFCs và SF6.
-
CO2 phát thải khi đốt cháy nhiên liệu hóa thạch (than, dầu, khí) và là
nguồn khí nhà kính chủ yếu do con người gây ra trong khí quyển. CO2
cũng sinh ra từ các hoạt động công nghiệp như sản xuất xi măng và cán
thép.
-
CH4 sinh ra từ các bãi rác, lên men thức ăn trong ruột động vật nhai lại,
hệ thống khí, dầu tự nhiên và khai thác than.
-
-
N2O phát thải từ phân bón và các hoạt động công nghiệp.
HFCs được sử dụng thay cho các chất phá hủy ôzôn (ODS) và HFC-23
là sản phẩm phụ của quá trình sản xuất HCFC-22.
-
-
PFCs sinh ra từ quá trình sản xuất nhôm.
SF6 sử dụng trong vật liệu cách điện và trong quá trình sản xuất magiê.
Các biểu hiện của biến đổi khí hậu:
-
-
Sự nóng lên của khí quyển và Trái đất nói chung.
Sự thay đổi thành phần và chất lượng khí quyển có hại cho môi trường
sống của con người và các sinh vật trên Trái đất.
-
Sự dâng cao mực nước biển do băng tan, dẫn tới sự ngập úng ở các vùng
đất thấp, các đảo nhỏ trên biển.
- 5 -
Học viên thực hiện: Phạm Thị Quỳnh Thảo. Lớp: CH STH tháng 2/2009 – 2010.
-
Sự di chuyển của các đới khí hậu tồn tại hàng nghìn năm trên các vùng
khác nhau của Trái đất dẫn tới nguy cơđe dọa sự sống của các loài sinh
vật, các hệ sinh thái và hoạt động của con người.
-
-
Sự thay đổi cường độ hoạt động của quá trình hoàn lưu khí quyển, chu
trình tuần hoàn nước trong tự nhiên và các chu trình sinh địa hoá khác.
Sự thay đổi năng suất sinh học của các hệ sinh thái, chất lượng và thành
phần của thuỷ quyển, sinh quyển, các địa quyển.
Một số hiện tượng của biến đổi khí hậu
- Hiệu ứng nhà kính: "Kết quả của sự của sự trao đổi không cân bằng về
năng lượng giữa trái đất với không gian xung quanh, dẫn đến sự gia tăng
nhiệt độ của khí quyển trái đất được gọi là Hiệu ứng nhà kính". Hiệu
ứng nhà kính, dùng để chỉ hiệu ứng xảy ra khi năng lượng bức xạ của tia
sáng mặt trời, xuyên qua các cửa sổ hoặc mái nhà bằng kính, được hấp
thụ và phân tán trở lại thành nhiệt lượng cho bầu không gian bên trong,
dẫn đến việc sưởi ấm toàn bộ không gian bên trong chứ không phải chỉ ở
những chỗ được chiếu sáng.
Học viên thực hiện: Phạm Thị Quỳnh Thảo. Lớp: CH STH tháng 2/2009 – 2010.
Mưa axit: Mưa acid là mưa có tính acid do một số chất khí hòa tan trong nước
mưa tạo thành các acid khác nhau. Trong tự nhiên, mưa có tính acid chủ yếu vì
trong nước mưa có CO2 hòa tan (từ hơi thở của động vật và có một ít Cl- (từ nước
biển) và có độ pH < 5. Là sự lắng đọng thành phần axít trong những cơn mưa,
sương mù, tuyết, băng, hơi nước…
- Thủng tầng ô zôn: Ozon là một chất khí có trong thiên nhiên, nằm trên tầng cao
khí quyển của Trái đất, ở độ cao khoảng 25km trong tầng bình lưu, gồm 3 nguyên
tử oxy (03). Chất khí ấy tập hợp thành một lớp bao bọc quanh hành tinh thường
được gọi là tầng Ozon. Tầng ozon như lớp áo choàng bảo vệ Trái đất trước sự xâm
nhập và phá hủy của tia tử ngoại. Tầng ozon là lớp lọc bức xạ mặt trời, một phần
lớp lọc này bị mất sẽ làm cho bề mặt Trái đất nóng lên. Chiếc áo choàng quý giá
ấy bị "rách" cũng có nghĩa sự sống của muôn loài sẽ bị đe dọa.
Học viên thực hiện: Phạm Thị Quỳnh Thảo. Lớp: CH STH tháng 2/2009 – 2010.
- Cháy rừng: Nhiệt độ tăng cao, đất đai khô cằn và nhiều cánh rừng lớn biến
thành tro bụi - những hiện tượng bất thường này không còn bó hẹp ở một số quốc
gia hay khu vực mà đang xảy
ra hầu khắp trên thế giới. Từ
vùng rừng Taiga ở Sibérie của
Nga đến khu rừng Rockies
rộng lớn ở Canada, miền Nam
California (Mỹ) và Australia,
các nhà khoa học đã tìm thấy
những bằng chứng rõ ràng cho
thấy tình trạng cháy rừng tràn
lan hiện nay có nguồn gốc từ
sự biến đổi khí hậu.
-
Lũ lụt:
- 8 -
Học viên thực hiện: Phạm Thị Quỳnh Thảo. Lớp: CH STH tháng 2/2009 – 2010.
-
Hạn hán
- Sa mạc hóa: là hiện tượng suy thoái đất đai ở những vùng khô hạn, bán khô hạn,
vùng ẩm nửa khô hạn, gây ra bởi sinh hoạt con người và biến đổi khí hậu.Ở Việt
Nam,
mất
rừng
là
nguyên nhân
chủ yếu dẫn
tới
hoang
mạc hoá, gây
suy thoái môi
trường, lũ lụt
và hạn hán.
- 9 -
Học viên thực hiện: Phạm Thị Quỳnh Thảo. Lớp: CH STH tháng 2/2009 – 2010.
- Hiện tượng sương khói: Sương khói là một sự cố môi trường, xảy ra do sự kết
hợp sương với khói và một số chất gây ô nhiễm không khí khác. Sương khói
thường tạo ra nhiều chất gây ô nhiễm thứ cấp có hại cho động thực vật và môi
trường nói chung.
III. Hậu quả của biến đổi khí hậu.
3.1. Các hệ sinh thái bị phá hủy:
Biến đổi khí hậu và lượng cacbon dioxite ngày càng tăng cao đang thử
thách các hệ sinh thái của chúng ta. Các hậu quả như thiếu hụt nguồn nước ngọt,
không khí bị ô nhiễm nặng, năng lượng và nhiên liệu khan hiếm, và các vấn đề y
tế liên quan khác không chỉ ảnh hưởng đến đời sống của chúng ta mà còn là vấn
đề sinh tồn.
- 10 -
Học viên thực hiện: Phạm Thị Quỳnh Thảo. Lớp: CH STH tháng 2/2009 – 2010.
San hô bị tẩy trắng do nước biển ấm lên chỉ là một trong rất nhiều tác hại của biến
đổi khí hậu đến các hệ sinh thái.
3.2. Mất đa dạng sinh học
Nhiệt độ trái đất hiện nay đang làm cho các loài sinh vật biến mất hoặc có
nguy cơ tuyệt chủng. Khoảng 50% các loài động thực vật sẽ đối mặt với nguy cơ
tuyệt chủng vào năm 2050 nếu nhiệt độ trái đất tăng thêm từ 1,1 đến 6,4 độ C nữa.
Sự mất mát này là do mất môi trường sống vì đất bị hoang hóa, do nạn phá rừng
và do nước biển ấm lên. Các nhà sinh vật học nhận thấy đã có một số loài động vật
di cư đến vùng cực để tìm môi trường sống có nhiệt độ phù hợp. Ví dụ như là loài
cáo đỏ, trước đây chúng thường sống ở Bắc Mỹ thì nay đã chuyển lên vùng Bắc
cực.Và dĩ nhiên con người cũng không nằm ngoài tầm ảnh hưởng. Tình trạng đất
hoang hóa và mực nước biển đang dâng lên cũng đe dọa đến nơi cư trú của chúng
ta. Và khi cây cỏ và động vật bị mất đi cũng đồng nghĩa với việc nguồn lương
thực, nhiên liệu và thu nhập của chúng ta cũng mất đi.
- 11 -
Học viên thực hiện: Phạm Thị Quỳnh Thảo. Lớp: CH STH tháng 2/2009 – 2010.
Cáo Bắc cực
3.3. Chiến tranh và xung đột
Lương thực và nước ngọt ngày càng khan hiếm, đất đai dần biến mất nhưng
dân số cứ tiếp tục tăng; đây là những yếu tố gây xung đột và chiến tranh giữa các
nước và vùng lãnh thổ. Do nhiệt độ trái đất nóng lên và biến đổi khí hậu theo
chiều hướng xấu đã dần làm cạn kiệt các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Một cuộc
xung đột điển hình do biến đổi khí hậu là ở Darfur. Xung đột ở đây nổ ra trong
thời gian một đợt hạn hán kéo dài, suốt 20 năm vùng này chỉ có một lượng mưa
nhỏ giọt và thậm chí nhiều năm không có mưa, làm nhiệt độ vì thế càng tăng cao.
Theo phân tích của các chuyên gia, các quốc gia thường xuyên bị khan hiếm nước
và mùa màng thất bát thường rất bất ổn về an ninh.
Xung đột ở Darfur (Sudan)
xảy ra một phần là do các căng
thẳng của biến đổi khí hậu.
- 12 -
Học viên thực hiện: Phạm Thị Quỳnh Thảo. Lớp: CH STH tháng 2/2009 – 2010.
3.4. Các tác hại đến kinh tế:
Các thiệt hại về kinh tế do biến đổi khí hậu gây ra cũng ngày càng tăng theo
nhiệt độ trái đất. Các cơn bão lớn làm mùa màng thất bát, tiêu phí nhiều tỉ đô la;
Ngoài ra, để khống chế dịch bệnh phát tán sau mỗi cơn bão lũ cũng cần một số
tiền khổng lồ. Khí hậu càng khắc nghiệt càng làm thâm hụt các nền kinh tế.
Lấy ví dụ, trong đợt bão hồi năm 2005, bang Louisiana (Mỹ) bị thiệt hại đến 135 tỉ
đô la, và trong mấy tháng tiếp theo, thu nhập của toàn bang giảm đến 15%.
Các tổn thất về kinh tế ảnh hưởng đến mọi mặt của đời sống. Người dân phải chịu
cảnh giá cả thực phẩm và nhiên liệu leo thang; các chính phủ phải đối mặt với việc
lợi nhuận từ các ngành du lịch và công nghiệp giảm sút đáng kể, nhu cầu thực
phẩm và nước sạch của người dân sau mỗi đợt bão lũ rất cấp thiết, chi phí khổng
lồ để dọn dẹp đống đổ nát sau bão lũ, và các căng thẳng về đường biên giới.
Các cơn bão lớn gây thiệt hại kinh tế đến hàng trăm tỉ đô la.
- 13 -
Học viên thực hiện: Phạm Thị Quỳnh Thảo. Lớp: CH STH tháng 2/2009 – 2010.
3.5. Dịch bệnh:
Nhiệt độ tăng cùng với lũ lụt và hạn hán đã tạo điều kiện thuận lợi cho các
con vật truyền nhiễm như muỗi, ve, chuột,… sinh sôi nảy nở, truyền nhiễm bệnh
gây nguy hại đến sức khỏe của nhiều bộ phận dân số trên thế giới. Tổ chức WHO
đưa ra báo cáo rằng các dịch bệnh nguy hiểm đang lan tràn ở nhiều nơi trên thế
giới hơn bao giờ hết. Những vùng trước kia có khí hậu lạnh giờ đây cũng xuất hiện
các loại bệnh nhiệt đới. Hàng năm có khoảng 150 ngàn người chết do các bệnh có
liên quan đến biến đổi khí hậu, từ bệnh tim do nhiệt độ tăng quá cao, đến các vấn
đề hô hấp và tiêu chảy.
3.6. Hạn hán
Trong khi một số nơi trên thế giới chìm ngập trong lũ lụt triền miên thì một
số nơi khác lại hứng chịu những đợt hạn hán khốc liệt kéo dài. Hạn hán làm cạn
kiệt nguồn nước sinh hoạt và tưới tiêu, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền nông
nghiệp của nhiều nước. Hậu quả là sản lượng và nguồn cung cấp lương thực bị đe
dọa, một lượng lớn dân số trên trái đất đang và sẽ chịu cảnh đói khát.
- 14 -
Học viên thực hiện: Phạm Thị Quỳnh Thảo. Lớp: CH STH tháng 2/2009 – 2010.
Hiện tại, các vùng như Ấn Độ, Pakistan, và Châu Phi đang hứng chịu những đợt
hạn hán, lượng mưa ở các khu vực này ngày càng thấp, và tình trạng này còn tiếp
tục kéo dài trong vài thập kỷ tới. Theo ước tính, đến năm 2020, sẽ có khoảng 75
triệu đến 250 triệu người dân châu Phi thiếu nguồn nước sinh hoạt và canh tác, dẫn
đến sản lượng nông nghiệp của lục địa này sẽ giảm khoảng 50%.
3.7. Bão lụt:
Để dự đoán các ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến thời tiết, các nhà khoa
học phải dùng đến các thiết bị hiện đại. Nhưng chẳng cần có thiết bị hiện đại cũng
thấy được những cơn bão khốc liệt đang ngày một nhiều hơn. Trong vòng chỉ 30
năm qua, số lượng những cơn giông bão cấp độ mạnh đã tăng gần gấp đôi. Theo
ước tính, chỉ riêng ở Mỹ, trong vòng 100 năm qua (từ 1905 đến 2005), số lượng
những cơn bão mạnh đã tăng không ngừng. Nếu từ 1905 – 1930 chỉ có khoảng
trung bình 3,5 cơn/năm thì con số này là 5,1 trong khoảng 1931-1994, và lên đến
8,4 từ 1995-2005. Thực tế, năm 2010 đã vượt quá năm 1998 về số tháng phá kỷ
lục nhiệt độ cao nhất theo lịch năm (Cục Quản lý Đại dương & Khí quyển Quốc
gia Hoa Kỳ -NOAA).
- 15 -
Học viên thực hiện: Phạm Thị Quỳnh Thảo. Lớp: CH STH tháng 2/2009 – 2010.
Tài liệu thống kê của Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn cho thấy
những thiệt hại do bão, lũ gây ra ở Việt Nam trong hơn hai thập kỷ qua lớn nhất từ
trước đến nay là do bão, lũ gây ra năm 1996, sau đó là năm 1994 , 1986 và năm
1995, 1998, 2000 (hầu hết những năm này đều thiệt hại trên 100 triệu USD). Mức
độ thiệt hại về sinh mạng và vật chất do các cơn bão và các trận lụt lội gây ra cũng
đang ở mức kỷ lục.
3.8. Những đợt nắng nóng gay gắt
Đợt nắng nóng quét qua Châu Âu hồi năm 2003, 2010 đã làm thiệt mạng
khoảng hơn 40 ngàn người (theo WHO). Đó thật sự là dấu hiệu đáng báo động của
những thay đổi ngày càng tồi tệ của khí hậu. Các đợt nắng nóng khủng khiếp đang
diễn ra thường xuyên hơn gấp khoảng 4 lần so với trước đây, và dự đoán trong
vòng 40 năm tới, mức độ thường xuyên của chúng sẽ gấp 100 lần so với hiện nay.
Hậu quả của các đợt nóng này là nguy cơ cháy rừng, các bệnh tật do nhiệt độ cao
gây ra, và tất nhiên là đóng góp vào việc làm tăng nhiệt độ trung bình của trái đất.
Các năm từ 2001 - 2009 đều là 11 năm nóng nhất trong chuỗi số liệu đo đạc. Đáng
chú ý, sáu tháng đầu năm 2010 là một chuỗi tháng nhiệt độ toàn cầu cao nhất chưa
- 16 -
Học viên thực hiện: Phạm Thị Quỳnh Thảo. Lớp: CH STH tháng 2/2009 – 2010.
từng có (trong đó tháng 6 vừa qua là tháng nóng kỷ lục), bao gồm cả nhiệt độ trên
đất liền và trên biển toàn cầu kể từ năm 1980.
3.9. Các núi băng và sông băng đang teo nhỏ
Không cần tới những thiết bị đặc biệt để thấy rằng các sông băng và núi băng trên
thế giới đang nhỏ dần. Những lãnh nguyên bao la từng được bao phủ bởi một lớp
băng vĩnh cữu rất dày giờ đây được cây cối bao phủ. Lấy một ví dụ, các núi băng ở
dãy Hy Mã Lạp Sơn cung cấp nước ngọt cho sông Hằng – nguồn nước uống và
canh tác của khoảng 500 triệu người – đang co lại khoảng 37m mỗi năm.
3.10. Mực nước biển đang dâng lên
Nhiệt độ ngày càng cao trên trái đất khiến mực nước biển đang dần dâng
lên. Nhiệt độ tăng làm các sông băng, biển băng hay lục địa băng trên trái đất tan
chảy và làm tăng lượng nước đổ vào các biển và đại dương.
Các nhà khoa học đã tiến hành quan sát, đo đạc và nhận thấy rằng băng ở đảo băng
Greenland đã mất đi một số lượng lớn, gây ảnh hưởng trực tiếp đến các đảo quốc
hay các quốc gia nằm ven biển. Theo ước tính, nếu băng tiếp tục tan thì nước biển
sẽ dâng thêm ít nhất 6m nữa vào năm 2100. Với mức này, phần lớn các đảo của
Indonesia, và nhiều thành phố ven biển khác sẽ hoàn toàn biến mất.
- 17 -
Học viên thực hiện: Phạm Thị Quỳnh Thảo. Lớp: CH STH tháng 2/2009 – 2010.
Hình ảnh băng ở Bắc Cực do vệ tinh chụp. Ảnh: NASA.
Trong suốt 30 năm qua, mực nước biển ở Việt Nam đã tăng lên 5 cm. Theo
dự đoán, mực nước biển sẽ còn tăng cao nữa khoảng 9 cm vào năm 2010, 33 cm
vào năm 2050, 45 cm vào năm 2070 và 1 m vào năm 2100. Việt Nam sẽ bị ảnh
hưởng lớn do mực nước biển tăng, vì những vùng đất thấp ở đồng bằng song Mê
Kông và đồng bằng sông Hồng có mật độ dân số khá cao. Do đó, ước tính rằng,
mực nước biển tăng cao 1 m sẽ khiến 10.8% dân số bị mất đất (Tài liệu làm việc
của Ngân hangTthế giới, “Tác động của mực nước biển dâng cao ở những quốc
gia đang phát triển: phân tích mang tính so sánh”;
Susmita Dasgupta, Benoit Laplante, Craig Meisner, David Wheeler, and Jianping
Yan; 2007.)
- 18 -
Học viên thực hiện: Phạm Thị Quỳnh Thảo. Lớp: CH STH tháng 2/2009 – 2010.
IV. Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến HST đô thị.
4.1. Hệ sinh thái đô thị là gì?
Khác với các hệ sinh thái tự nhiên khác, hệ sinh thái đô thị ngoài hai thành
phần cơ bản là hữu sinh và vô sinh, nó còn có thành phần thứ ba đó là thành phần
công nghệ. Nó bao gồm các nhà máy, cơ quan, xí nghiệp, các cơ sở sản xuất...
Hệ sinh thái đô thị là hệ sinh thái nhân văn do con người tạo nên, được sử
dụng như một điểm dân cư tập chung và thường theo yêu cầu của sự phát triển
công nghiệp. Ở đô thị, con người quan hệ mật thiết với nhau hơn so với các yếu tố
tự nhiên. Tuy nhiên, dưới sự phát triển và tác động của con người, các yếu tố
thuộc về tự nhiên, thiên nhiên đang dần bị mất đi. Khí hậu thay đổi, thời tiết bất
thường cộng với nhiều nguồn ô nhiễm (nguồn nước, rác thải, khói bụi, tiếng ồn…)
gây ra cho con người những bất lợi về sức khỏe đặc biệt là về yếu tố tinh thần.
Ngoài ra, theo quan điểm Holistie, hệ sinh thái đô thị được coi là mội môi
trường tự nhiên và hoàn cảnh văn hóa, xã hội mà con người đã xây dựng nên cho
bản thân trong đô thị. Với cách nhìn như vậy, đô thị là biểu hiện cao nhất của tình
hình phát triển kinh tế và xã hội của loài người, và xét tiêu chuẩn nào thì cũng là
một thực thể vô cùng phức tạp. Từ đó, “hệ sinh thái đô thị được đặc trưng bằng hai
loại cơ chế khống chế: tự nhiên và xã hội. Trong đó, cơ chế xã hội dần chiếm ưu
thế. Các giới hạn của hệ sinh thái đô thị sẽ xác định rõ ràng phạm vi vận động của
con người trong hệ sinh thái đô thị”.
Các đặc trưng của hệ sinh thái đô thị
- Mật độ dân cư cao.
- Hoạt động kinh tế - xã hội thường xuyên, liên tục, chủ yếu là công –
thương nghiệp.
- Giao thông và xây dựng.
- Các hợp phần tự nhiên bị biến đổi và thay thế bằng các hợp phần nhân tạo.
- Được tạo ra từ nhu cầu phát triển của con người.
- 19 -
Học viên thực hiện: Phạm Thị Quỳnh Thảo. Lớp: CH STH tháng 2/2009 – 2010.
4.2. Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến các HST đô thị
4.2.1. Nguy cơ mất nơi ở do mực nước biển dâng cao và hiện tượng sa
mạc hóa
Với trên 3.200km bờ biển, Việt Nam được coi là quốc gia có mức độ dễ bị
tổn thương cao trước sự biến đổi khí hậu. Theo tính toán của phân viện Khí tượng
thủy văn và môi trường phía Nam, khi mực nước biển dâng cao từ 0,2 – 0,6m, sẽ
có 1.708 km2 đất bị ngập ảnh hưởng tới 108.267 người sinh sống. Trong trường
hợp tệ hơn, khi nước dâng lên 1m, Đồng bằng sông Cửu Long sẽ mất đi một diện
tích đất khoảng 15.000 – 20.000km2. Vùng đất thấp của TP.HCM là nơi sẽ bị ảnh
hưởng nặng nề do nước biển dâng.
Đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng sông Hồng là những vùng trũng
nên bị ảnh hưởng nhiều nhất khi xảy ra ngập lụt, xâm nhập mặn và các hiện tượng
thời tiết xấu. Trong đó 90% diện tích thuộc các tỉnh ĐBSCL bị ngập hầu như toàn
bộ, và có khoảng 10% dân số bị ảnh hưởng trực tiếp, tổn thất đối với GDP khoảng
10%. Nếu nước biển dâng 3m sẽ có khoảng 25% dân số bị ảnh hưởng như đợt xâm
nhập mặn vào năm 2005. Đồng bằng sông Cửu Long sẽ là vùng bị ảnh hưởng
mạnh nhất, nước biển dâng cao hơn sẽ làm cho nhiều vùng đồng bằng nước ngọt
hiện nay trở thành vùng nước lợ, hàng triệu người sẽ có nguy cơ bị mất chỗ ở, từ
đó làm gia tăng sức ép lên sự phát triển của các vùng lân cận, làm thay đổi chế độ
thủy văn dòng chảy và gây áp lực đến 90% diện tích ngập nước. Vì theo dự báo,
trong vài chục năm tới, ĐBSCL nước biển sẽ dâng cao làm ngập lụt phần lớn
ĐBSCL vốn đã bị ngập lụt hàng năm, dẫn đến mất nhiều đất nông nghiệp. Sẽ có từ
15.000 – 20.000 km2 đất thấp ven biển bị ngập hoàn toàn. Lưu lượng nước sông
Mêkông giảm từ 2 – 24% trong mùa khô, tăng từ 7- 15% vào mùa lũ. Hạn hán sẽ
xuất hiện nhiều hơn. Nước lũ sẽ cao hơn tại các tỉnh An Giang, Đồng Tháp, Long
An, Tiền Giang, Kiên Giang, Vĩnh Long, TP Cần Thơ, Hậu Giang, thời gian ngập
lũ tại đây sẽ kéo dài hơn hiện nay. Việc tiêu thoát nước mùa mưa lũ cũng khó
khăn. Suy giảm tài nguyên nước sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất nông
- 20 -
Học viên thực hiện: Phạm Thị Quỳnh Thảo. Lớp: CH STH tháng 2/2009 – 2010.
nghiệp, nghề cá. Quá trình xâm nhập mặn vào nội đồng sẽ sâu hơn, tập trung tại
các tỉnh ven biển gồm Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Trà Vinh, Bến Tre, Tiền
Giang, Long An và nước ngọt sẽ khan hiếm.
Trong khi đó, hạn hán có xu hướng mở rộng ở hầu hết các vùng, đặc biệt là
ở các tỉnh Nam Trung Bộ, dẫn đến gia tăng hiện tượng hoang mạc hóa. Theo Bộ
NN&PTNT, trong 9 triệu ha đất hoang hóa ở VN (chiếm 28% diện tích cả nước)
có 4,3 triệu ha đã và đang bị thoái hóa, sa mạc hóa, ảnh hưởng nghiêm trọng đến
đời sống của trên 20 triệu người. Số còn lại là những đụn cát và bãi cát di động ở
các tỉnh ven biển miền Trung; đất khô theo mùa hoặc vĩnh viễn ở Nam Trung Bộ
như: Bình Thuận, Ninh Thuận, Nam Khánh Hoà); đất bị xói mòn ở Tây Bắc, Tây
Nguyên và đất bị nhiễm mặn, nhiễm phèn ở ĐBSCL đã ảnh hướng xấu đến hoạt
động phát triển kinh tế xã hội, xóa đói giảm nghèo ở khu vực nông thôn.
4.2.2. Ngập lụt ngày càng nghiêm trọng hơn
Thiên tai đang diễn ra nhiều nơi trên thế giới tiếp tục là những cảnh báo gửi
tới con người về các tác động do biến đổi khí hậu mang lại. Ngày 2/12, hàng ngàn
người Venezuela đã phải rời bỏ nhà cửa do các trận lở đất và lũ lụt ở khu vực gần
thủ đô Caracas khiến ít nhất 21 người thiệt mạng và hàng chục người khác bị mất
tích. Mưa to và lũ lụt đã khiến hàng nghìn ngôi nhà bị phá hủy, hầu hết số nạn
nhân kể trên bị nước lũ cuốn trôi hoặc bị chết do nhà đổ. Chính phủ Venezuela đã
tuyên bố tình trạng khẩn cấp tại 3 bang. Cơ quan khí tượng Venezuela cho biết,
mưa lớn còn kéo dài vài ngày nữa. Trong khi đó, bang Tamil Nadu của Ấn Độ
cũng đang hứng chịu các trận mưa lớn, gây lụt lội trên diện rộng. Tại khu vực
Cuddalore, gần 50.000 ha hoa màu đã bị phá hủy hoàn toàn và hơn 20 làng ngập
chìm trong nước lũ. Theo Tỉnh trưởng Karunanihi, đã nhận được thông báo về số
người thiệt mạng trong trận lụt nhưng chưa thống kê chi tiết.
Hơn 400 đô thị lớn nhỏ ven biển Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng trực tiếp hoặc
gián tiếp bởi mực nước biển dâng trong khi biến đổi khí hậu đã hiện hữu ở nhiều
- 21 -
Học viên thực hiện: Phạm Thị Quỳnh Thảo. Lớp: CH STH tháng 2/2009 – 2010.
đô thị của các thành phố lớn – một quan chức ở Cục Phát triển Đô thị cho biết
trong hội thảo biến đổi khí hậu và phát triển đô thị bền vững tại Việt Nam ngày 14
và 15/9/2010 ở Hà Nội.
Trong tổng số 754 đô thị hiện nay, khoảng 405 đô thị lớn nhỏ sẽ bị ảnh
hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến mực nước biển dâng” – TS.KTS Đỗ
Tú Lan, Phó Cục trưởng Cục Phát triển Đô thị thuộc Bộ Xây dựng Việt Nam cho
biết. Tình trạng gia tăng liên tục của mực nước trên sông Sài Gòn cùng với những
trận mưa lớn xuất hiện ngày càng thường xuyên hơn trong khi hệ thống thoát nước
và kiểm soát triều cường vẫn chưa đủ khả năng đáp ứng đã làm cho tình trạng
ngập lụt đô thị ở TP Hồ Chí Minh ngày càng trầm trọng. Hơn 70 vị trí ngập xuất
hiện ở TP Hồ Chí Minh sau những cơn mưa từ 40mm trở lên ngay cả khi thủy
triều đang ở mức thấp cho thấy dòng chảy tràn đô thị do mưa lớn vượt quá khả
năng thoát nước đang là tác nhân gây ngập chủ yếu hiện nay. Các đô thị trong khu
vực đồng bằng châu thổ như Cần Thơ hay các đô thị nằm gần châu thổ sông Mê
Kông như TP Hồ Chí Minh sẽ không chỉ có nguy cơ bị đe dọa trực tiếp bởi mực
nước biển dâng mà có thể chịu áp lực di cư lớn của từ các khu vực xung quanh.
Không những vậy, các nguồn lực kinh tế-xã hội, chẳng hạn như tiến trình công
nghiệp hóa liên tục và lối sống mới, sẽ tiếp tục kép dòng di cư từ các vùng nông
thôn vào các đô thị.
Việt Nam xếp thứ 4 sau Trung Quốc, Ấn Độ, Bangladesh nếu tính lượng
người lớn nhất tuyệt đối sống ở các vùng ven biển có cao độ thấp và dễ bị tổn
thương, được xác định là vùng tiếp giáp dọc theo bờ biển có cao độ thấp hơn 10
mét trên mực nước biển. Khoảng 43 triệu người Việt Nam hoặc hơn 55% dân số
cả nước (38% dân số đô thị Việt Nam) đang sinh sống tại những vùng mực nước
biển dâng. Đây là tỷ lệ phần trăm cao nhất trên toàn thế giới. Theo định hướng quy
hoạch tổng thể phát triển hệ thống đô thị Việt Nam đến năm 2020, quy mô đô thị
từ mức 30,4 triệu người và diện tích 2.432 km2 năm 2010 sẽ tăng lên 40 triệu
- 22 -
Học viên thực hiện: Phạm Thị Quỳnh Thảo. Lớp: CH STH tháng 2/2009 – 2010.
người và diện tích 4.600 km2 (chiếm 45% dân số và 1,4% diện tích cả nước) vào
năm 2020.
Những đối tượng công trình chịu tác động của biến đổi khí hậu và nước
biển dâng ở các đô thị gồm nhà ở và các công trình công cộng như trường học,
bệnh viện, nhà hát, các công sở, xí nghiệp, trung tâm thương mại.
Biến đổi khí hậu không chỉ đe dọa các đô thị ven biển mà còn tác động rất
lớn đến những đô thị ở vùng núi - các nhà khoa học cho biết như vậy trong hội
thảo “Ô nhiễm không khí, biến đổi khí hậu và tác động sức khỏe ở Việt Nam”
ngày 11/9 ở Hà Nội. "Các vùng ven biển tập trung nhiều khu đô thị nên nước biển
dâng sẽ tác động rất lớn lên khu vực này”, PGS.TS Trần Việt Liễn, Trung tâm
Khoa học Công nghệ Khí tượng Thủy văn & Môi trường, nói: “Lũ quét và sạt lở
đất, đá tăng cũng đe dọa các đô thị vùng núi.
4.2.3. Hiệu ứng đảo nhiệt đô thị
Nền nhiệt độ tăng do biến đổi khí hậu ở nội đô nhanh hơn các vùng ngoại ô,
đặc biệt ở các thành phố lớn. Các đợt nóng đang có xu thế tăng nhanh, nhất là ở
các thanh phố lớn do kết hợp với hiệu ứng đô thị. Các đô thị ở Nam Bộ, ven biển
Trung Bộ xuất hiện nhiều hơn các đợt nắng nóng dị thường. Tăng nhiệt độ không
khí: Nhiệt độ toàn cầu có thể tăng 4oC, đến năm 2050 nếu phát thải khí nhà kính
vẫn có xu hướng tiếp tục tăng như hiện nay, một nghiên cứu mới được đưa ra tại
hội nghị khoa học đánh giá về tình trạng và hậu quả của trái đất ấm dần lên tại
trường đại học Oxford (Anh Quốc) ngày 28/9. Các nhà khoa học cũng cho rằng
nhiệt độ ấm dần lên sẽ có ảnh hưởng đặc biệt nghiêm trọng đến một số khu vực
như Bắc Cực, Tây và Nam Phi vì tại những vùng này nhiệt độ sẽ tăng thêm tới
10oC. Đặc biệt ở Bắc Cực: phát thải khí nhà kính gây ấm nóng toàn cầu làm nhiệt
độ Bắc Cực trong thập kỉ qua lên mức cao nhất trong ít nhất 2000 năm, làm đảo
ngược 1 chiều hướng làm mát tự nhiên đã kéo dài hơn 4 thiên niên kỉ. Điều gì sẽ
- 23 -
Học viên thực hiện: Phạm Thị Quỳnh Thảo. Lớp: CH STH tháng 2/2009 – 2010.
xảy ra nếu Bắc Cực không đứng yên tại đó, bởi vì Bắc Cực là máy tạo thời tiết lớn
nhất của Trái đất, còn được gọi là máy điều hòa của Trái đất.
Biến đổi khí hậu đã hiện hữu tại các đô thị Việt Nam khi nền nhiệt độ ở đô
thị cao hơn trung bình so với những khu vực xung quanh. Theo TS Michael
Waibel, Đại học Hamburg, CHLB Đức, sự gia tăng đô thị diễn ra hiện nay tại khu
vực nam TP Hồ Chí Minh hoặc các khu đô thị mới CIPUTRA hoặc Splendona của
Hà Nội đã phủ kín bề mặt các khu vực có giá trị thu nước. Điều này làm giảm khả
năng thẩm thấu nước của đô thị trong trường hợp có mưa lớn, khiến cho các khu
đô thị hiện hữu và khu mới được quy hoạch tăng khả năng ngập lụt.“Quá trình đô
thị hóa trong những năm qua rất nhanh, thiếu kiểm soát, có nơi tự phát”, bà Đỗ Tú
Lan nói: ”Tình trạng ngập lụt hiện nay ở đô thị là do quy hoạch chưa chặt chẽ”.16
khu kinh tế ven biển, là những nơi đột phá phát triển kinh tế, cũng sẽ gặp rủi ro bởi
biến đổi khí hậu. TS Michael Waibel cho rằng mất đi các thực thể nước và mảng
xanh cũng như tăng môi trường xây dựng khiến cho Hà Nội và TP Hồ Chí Minh
ngày càng phải chịu ảnh hưởng từ “hiệu ứng đảo nhiệt đô thị”. Hiện tượng này dễ
nhận thấy tại các khu vực nội thành xây dựng dày đặc. Thậm chí hiện nay nhiệt độ
ở các khu vực này cao hơn từ 8 đến 10 độ C nhiệt độ trung bình so với các khu
vực xunh quanh.
Ông Hồ Phi Long, Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh, cho rằng hiện tượng
số trận mưa lớn xuất hiện với tần suất tăng dần theo thời gian đã được giải thích
bằng hiện tượng đảo nhiệt. Tình trạng nhiệt độ tăng liên tục và ngày càng nhanh
dần kể từ thập niên 90 của thế kỷ trước trùng khớp với lý thuyết của hiệu ứng đảo
nhiệt và góp phần lý giải hiện tượng mưa lớn xuất hiện ngày càng thường xuyên ở
các khu vực đô thị hóa. Đây không phải là vấn đề cá biệt của TP Hồ Chí Minh mà
đã được tổng kết trên khắp thế giới từ nhiều thập niên. Vẫn theo TS Michael
Waibel, độ vươn cao thiếu phối hợp của các tòa nhà tầng trong lòng trung tâm đô
thị có thể gây bất lợi cho hành lang thông gió và làm nghiêm trọng hơn các vấn đề
đảo nhiệt đô thị. Vì vậy việc ngăn chặn hoặc hạn chế tối thiểu hiện tượng đảo
- 24 -
Học viên thực hiện: Phạm Thị Quỳnh Thảo. Lớp: CH STH tháng 2/2009 – 2010.
nhiệt đô thị, một hệ thống ở cấp độ thành phố của không gian mở cần được tổ chức
nhằm thông gió và phát triển các khu vực tạo gió mát.
4.2.4. Mưa acid phá hủy các công trình – kiến trúc đô thị
Các hạt acid khi rơi xuống nhà cửa và các bức tượng điêu khắc sẽ ăn mòn
chúng Hà Nội và các thành phố lớn là nơi lưu giữ khá nhiều di tích lịch sử, các
công trình kiến trúc… có giá trị quan trọng của cả nước. Do vậy, việc bảo tồn và
giữ gìn các công trình này khỏi ảnh hưởng của mưa acid là điều cần thiết. Ông
Dương Hồng Sơn - Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Môi trường (Viện Khoa học
Khí tượng Thủy văn và Môi trường) khẳng định: “Nhiều công trình và hiện vật
lịch sử đặt ngoài trời nên ảnh hưởng của mưa acid tới các công trình này là không
tránh khỏi. Nhưng để đo được mức ảnh hưởng, mức thiệt hại ra sao thì rất khó". Ví
dụ như tòa nhà Capitol ở Ottawa đã bị tan rã bởi hàm lượng SO2 trong không khí
quá cao. Vào năm 1967, cây cầu bắc ngang sông Ohio đã sập làm chết 46 người;
nguyên nhân cũng là do mưa acid. Mưa acid cũng làm hư vải sợi, sách và các đồ
cổ quý giá. Hệ thống thông khí của các thư viện, viện bảo tàng đã đưa các hạt acid
vào trong nhà và chúng tiếp xúc và phá hủy các vật liệu nói trên. Các chất acid nêu
trên trong không khí rất nguy hại đối với cơ thể sống và chúng có thể hủy diệt sự
sống. Mưa acid có thể gây ra sự tàn phá đối với hệ thần kinh và gây bệnh thần
kinh đối với con người. Điều này xảy ra là vì các sản phẩm của các acid là các hỗn
hợp rất độc hại hòa tan trong nước uống.
Các tác hại trực tiếp của việc ô nhiễm do các chất khí acid lên người bao
gồm các bệnh về đường hô hấp như: suyển, ho gà và các triệu chứng khác như
nhức đầu, đau mắt, đau họng ... Các tác hại gián tiếp sinh ra do hiện tượng tích tụ
sinh học các kim loại trong cơ thể con người từ các nguồn thực phẩm bị nhiễm các
kim loại này do mưa acid.
- 25 -
Học viên thực hiện: Phạm Thị Quỳnh Thảo. Lớp: CH STH tháng 2/2009 – 2010.
4.2.5. Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến con người
4.2.5.1. Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến sức khỏe:
4.2.5.1.1. Trên thế giới:
Kết quả nghiên cứu về tác động của biến đổi khí hậu đối với con người do
Tổ chức Global Humanitarian Forum của cựu tổng Thư ký LHQ Kofi Annan vừa
công bố cho biết, hiện nay, biến đổi khí hậu đã cướp đi mạng sống của 300.000
người mỗi năm và ảnh hưởng đến cuộc sống của 300 triệu người trên trái đất do
tác động từ những đợt năng nóng, lũ lụt và cháy rừng gây ra.
- Hàng triệu người sống trong các khu nhà ổ chuột trở thành nạn nhân tiềm tàng
của các cơn bão hoặc cuồng phong. Cơn bão Katrina đã làm thiệt mạng 1850
người ở Mỹ, còn cơn bão Nargis đã lấy đi sinh mạng của gần 150.000 người ở
Birma.
- Theo ước tính chỉ trong năm 2003 các đợt nóng bất thường ở châu Âu đã làm
hơn 70.000 người chết. Đến năm 2100 nhiệt độ mùa hè tại đông bắc Ấn Độ và
Australia sẽ vượt quá 50 độ C. Tại tây nam và nam châu Âu, nhiệt độ sẽ lên tới 40
độ C. Ước tính, các hậu quả về sức khỏe do sự nóng lên toàn cầu gây ra -bệnh tật
hoặc tử vong- đối với dân châu Phi sẽ khắc nghiệt hơn 500 lần so với dân châu Âu
- Các nhà khoa học ước tính rằng sự tăng nhiệt độ lên 1 độ C sẽ khiến cho năng
lực sản xuất lương thực giảm tới 17%. Do vậy, giá lương thực sẽ tăng cao và nạn
đói sẽ gia tăng ở các quốc gia hiện đang phải đối mặt với những vấn đề này.
“Ngày nay có một tỷ người đang thiếu dinh dưỡng. Nếu như xuất hiện bùng nổ
dân số ở Trung Quốc hay Ấn Độ vào cuối thế kỷ này thì một nửa dân số thế giới
có thể lâm vào tình trạng thiếu ăn”.
- Những căn bệnh hiện nay đang hoành hành chủ yếu tại các khu vực nhiệt đới và
cận nhiệt đới như sốt rét, viêm màng não, sốt xuất huyết.. sẽ lan rộng ra trên phạm
vi toàn cầu. Đến năm 2080 số người mắc bệnh sốt rét sẽ tăng thêm 260-320 triệu
người. Sẽ có 6 triệu người mắc bệnh sốt xuất huyết ( hiện tại con số này là 3,5
triệu người). Điều này đòi hỏi phải có sự tổ chức lại hệ thống chăm sóc sức khỏe,
- 26 -
Học viên thực hiện: Phạm Thị Quỳnh Thảo. Lớp: CH STH tháng 2/2009 – 2010.
trong đó có huấn luyện nhân viên y tế để họ có thể đối phó với những căn bệnh
nguy hiểm nói trên.
- Đến năm 2020 trên 250 triệu dân châu Phi sẽ không được đáp ứng đầy đủ nhu
cầu về nước sạch. Việc thiếu nước làm gia tăng các bệnh truyền nhiễm và các
bệnh về đường hô hấp. Tổ chức WaterAid từng thông báo rằng bệnh tả do thiếu vệ
sinh và thiếu nước sạch là nguyên nhân làm gia tăng tỷ lệ tử vong ở trẻ em và tỷ lệ
này còn cao hơn tỷ lệ tử vong do AIDS, sốt rét và lao cộng lại. Trên thế giới hiện
có khoảng 1,5 tỷ người không tiếp cận được với nguồn nước sạch. “Nếu không
hành động ngay thì trong vòng từ 50 tới 100 năm nữa con cháu chúng ta sẽ phải
trả giá cho hậu quả của thay đổi khí hậu do cách sống phung phí của chúng ta hiện
nay. Đây là mối đe dọa cho sự tồn vong của chính con người.”
4.2.5.1.2. Ở Việt Nam:
- Những đối tượng dễ bị tổn thương nhất là những nông dân nghèo, các dân tộc
thiểu số ở miền núi, người già, trẻ em và phụ nữ.
- Tình trạng nóng lên làm thay đổi cấu trúc mùa nhiệt hàng năm. Ở miền Bắc, mùa
đông sẽ ấm lên, dẫn tới thay đổi đặc tính trong nhịp sinh học của con người.
- Nhiệt độ tăng làm tăng tác động tiêu cực đối với sức khoẻ con người, dẫn đến gia
tăng một số nguy cơ đối với tuổi già, người mắc bệnh tim mạch, bệnh thần kinh.
- Thiên tai như bão, tố, nước dâng, ngập lụt, hạn hán, mưa lớn và sạt lở đất v.v…
gia tăng về cường độ và tần số làm tăng số người bị thiệt mạng và ảnh hưởng gián
tiếp đến sức khoẻ thông qua ô nhiễm môi trường, suy dinh dưỡng, bệnh tật.
- BĐKH làm tăng khả năng xảy ra một số bệnh nhiệt đới: sốt rét, sốt xuất huyết,
làm tăng tốc độ sinh trưởng và phát triển nhiều loại vi khuẩn và côn trùng, vật chủ
mang bệnh, làm tăng số lượng người bị bệnh nhiễm khuẩn dễ lây lan.
- Sự suy giảm tầng ôzôn sẽ làm tăng cường độ tia cực tím ở bề mặt trái đất là
nguyên nhân gây ra nhiều hậu quả trong sinh học như làm da cháy nắng, lóa mắt,
- 27 -
Học viên thực hiện: Phạm Thị Quỳnh Thảo. Lớp: CH STH tháng 2/2009 – 2010.
lão hóa da, đục thủy tinh thể, ung thư mắt, gia tăng các khối u ác tính: 19% các
khối u ác tính ở đàn ông và 16% ở phụ nữ, bệnh ung thư da.
4.2.5.2. Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến kinh tế:
4.2.5.2.1. Vấn đề của thế giới:
Tất cả các nước đều bị tác động của BĐKH, nhưng những nước bị tác động
đầu tiên và nhiều nhất lại là những nước và cộng đồng dân cư nghèo nhất, mặc dù
họ đóng góp ít nhất vào nguyên nhân BĐKH. Tuy nhiên, hiện tượng thời tiết bất
thường, bao gồm lũ lụt, hạn hán, bão tố... cũng đang gia tăng ngay cả ở các nước
giàu. Nếu không thay đổi tư duy về đầu tư hiện nay và trong những thập niên tới,
thì chúng ta có thể gây ra những nguy cơ đổ vỡ lớn về kinh tế và xã hội ở một
quy mô tương tự những đổ vỡ liên quan tới cuộc đại chiến thế giới và suy thoái
kinh tế trong nửa đầu thế kỷ XX. Khi đó sẽ rất khó khăn để đảo ngược được những
gì có thể xảy ra. Thời tiết giá lạnh khắc nghiệt đang hoành hành một số nước châu
Âu, gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới cuộc sống của người dân. Tuyết rơi dày và
nhiệt độ xuống thấp đã buộc giới chức Đức và Anh phải hủy bỏ hoặc tạm hoãn
nhiều chuyến bay nội địa và quốc tế, khiến vận tải hàng không đình trệ và gây tắc
nghẽn trên các tuyến giao thông đường bộ. Tại Pháp, nhiệt độ xuống thấp đến mức
nhà cung cấp điện RTE cảnh báo cắt điện tại nhiều nơi do nhu cầu tiêu dùng điện
năng tăng mạnh. Thời tiết khắc nghiệt cũng khiến giới chức phải hủy bỏ tới 20%
dịch vụ vận tải bằng tàu cao tốc tới miền Đông Nam.
Chi phí thực hiện hành động ứng phó và thích ứng với BĐKH giữa các lĩnh
vực, các ngành trong một quốc gia hoặc giữa các nước trên thế giới không giống
nhau. Các nước phát triển phải chịu trách nhiệm cắt giảm khí thải ở mức 60% -
80% vào năm 2050, các nước đang phát triển cũng phải có những hành động thiết
thực và đáng kể đóng góp vào việc hạn chế thải khí gây hiệu ứng nhà kính phù
hợp với điều kiện mỗi nước. Tuy nhiên, các nước đang phát triển không thể tự
mình phải gánh chịu những khoản chi phí để thực hiện những hành động này. Do
- 28 -
Học viên thực hiện: Phạm Thị Quỳnh Thảo. Lớp: CH STH tháng 2/2009 – 2010.
"thị trường các-bon" đã hình thành, nên các nước phát triển sẵn sàng bơm những
dòng tiền đầu tư để hỗ trợ phát triển kỹ thuật, công nghệ sử dụng ít năng lượng
hóa thạch, kể cả thông qua cơ chế phát triển sạch. Sự chuyển đổi hình thức đầu tư
của những dòng tiền này là rất thiết thực nhằm hỗ trợ cho những hành động ứng
phó với BĐKH ở quy mô toàn cầu. Nguy cơ xảy ra những tác động tồi tệ nhất của
BĐKH có thể được giảm thiểu phần lớn nếu lượng khí thải vào khí quyển được ổn
định ở mức 450 ppm - 550 ppm (hiện nay gần tới 430 ppm). Điều đó đòi hỏi tổng
lượng khí thải ít nhất phải thấp hơn 25% mức hiện nay vào năm 2050. Như vậy,
lượng khí thải hằng năm phải giảm xuống thấp hơn 80% mức hiện nay. Đây là một
thách thức lớn đối với nhiều quốc gia, nhất là những quốc gia có lượng khí thải
lớn, song vẫn có thể thực hiện được bằng những hành động liên tục và dài hạn với
mức chi phí thấp hơn so với mức chi phí nếu không hành động (chỉ chiếm khoảng
1% tổng GDP toàn cầu). Chi phí này sẽ còn thấp hơn nữa nếu việc cắt giảm khí
thải đạt hiệu quả cao và có tính toán cả những lợi ích đi kèm (như lợi ích thu được
từ giảm ô nhiễm không khí). Ngược lại, chi phí sẽ cao hơn nếu việc cải tiến những
công nghệ sử dụng nhiên liệu hóa thạch (thải nhiều khí CO2) diễn ra chậm trễ hơn
dự kiến, hoặc các nhà hoạch định chính sách thất bại trong việc tạo ra những công
cụ kinh tế cho phép giảm lượng khí thải. Sự chậm trễ đồng nghĩa với việc để mất
cơ hội ổn định khí thải CO2 ở mức 500 ppm - 550 ppm. Những tác động tiêu cực
củabiến đổi khí hậu có thể làm thay đổi tốc độ tăng trưởng và phát triển. Sử dụng
những kết quả từ các mô hình kinh tế chính thống, ông N.Xten (Nicholas Stern),
tác giả của Báo cáo đánh giá tổng quan "Nghiên cứu kinh tế về biến đổi khí hậu"
đã ước tính rằng, nếu chúng ta không hành động, tổng chi phí và rủi ro chung do
BĐKH gây ra có thể tương đương với việc mất ít nhất 5% GDP toàn cầu/năm. Con
số thiệt hại có thể tăng lên tới 20% GDP hoặc cao hơn nếu một loạt những rủi ro
và tác động không được xem xét tới. Trái lại, chi phí cho hoạt động giảm thiểu
lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính nhằm tránh những tác động tồi tệ nhất của
BĐKH gây ra có thể chỉ chiếm khoảng 1% GDP toàn cầu/năm. Hành động ứng
- 29 -
Học viên thực hiện: Phạm Thị Quỳnh Thảo. Lớp: CH STH tháng 2/2009 – 2010.
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 30 trang mẫu của tài liệu "Đề tài Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến HST đô thị. Mô hình sinh thái nhằm ứng phó, ngăn ngừa ảnh hưởngcủa biến đổi khí hậu", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- de_tai_anh_huong_cua_bien_doi_khi_hau_den_hst_do_thi_mo_hinh.doc