Đồ án Quản trị danh mục sản phẩm của Tổng công ty chăn nuôi Việt Nam

Đồ án tốt nghiệp:  
" Quản trị danh mục sản phẩm của Tổng  
công ty chăn nuôi Việt Nam"  
  
ĐỀ CƯƠNG CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP  
Giáo viên hướng dẫn  
Sinh viên  
: G.V: Nguyễn Thị Tâm  
: Vũ Văn Tuyến  
Lớp  
: Marketing 44b  
Đề tài: Quản trị danh mục sản phẩm của Tổng công ty chăn nuôi Việt Nam .  
LỜI NÓI ĐẦU  
Thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành  
phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, theo định  
hướng xã hội chủ nghĩa, đòi hỏi các doanh nghiệp Nhà nước phải đối diện trực  
tiếp với thị trường, phải thay đổi cách thức làm ăn mới có thể tồn tại và phát  
triển bền vững trong cơ chế thị trường nhất là trong thời đại tự do hoá thương  
mại như hiện nay... Do đó các doanh nghiệp phải tự đổi mới về mọi mặt để tạo  
ra được hàng hoá có sức cạnh tranh cao.  
Là doanh nghiệp nhà nước, Tổng công ty chăn nuôi Việt Nam đã dần từng  
bước thích nghi được với cơ chế thị trường để tăng trưởng và phát triển. Các sản  
phẩm của Tổng Công Ty (TCT) đã khẳng định được vị thế của mình trong nước  
và dần chiếm lĩnh được thị trường nước ngoài. Với sự phát triển đó TCT đã  
khẳng định được lợi thế của mình trong lĩnh vực chế biến các sản phẩm chăn  
nuôi trong đó thịt lợn là sản phẩm có thế mạnh, chất lượng tốt, giá trị sử dụng  
cao, đảm bảo đủ các tiêu chuẩn về an toàn thực phẩm và các tiêu chuẩn khác do  
các nước nhập khẩu yêu cầu. Hiện nay thịt lợn không thể thiếu được trong cuộc  
sống hằng ngày của con người và được sử dụng rộng rãi trên thế giới.  
Tuy nhiên cũng như nhiều doanh nghiệp kinh doanh XNK khác, Tổng  
công ty chăn nuôi Việt nam còn gặp nhiều khó khăn, thử thách trong công tác  
kinh doanh. Mối quan tâm chung của ban lãnh đạo và toàn thể cán bộ công nhân  
viên trong tổng công ty là: Làm thế nào để đưa ra các giải pháp phù hợp để khắc  
phục và hạn chế khó khăn, thúc đẩy hơn nữa hoạt động sản xuất kinh doanh,  
tăng kim ngạch xuất khẩu và mở rộng thị trường nội địa đưa Tổng công ty chăn  
nuôi Việt Nam lớn mạnh xứng đáng là "con chim đầu đàn" của ngành chăn nuôi  
Việt Nam.  
Xuất phát từ thực tiễn trên và qua quá trình thực tập tại TCT em đã chọn  
đề tài “ Quản trị danh mục sản phẩm của TCT chăn nuôi VN’’ làm chuyên đề tốt  
nghiệp của mình. Trọng tâm chính của chuyên đề là giải quyết vấn đề xuất khẩu  
thịt lợn của TCT, đây cũng là thực trạng mà TCT đang phải đối mặt.  
Nội dung của chuyên đề:  
Chương I: Cơ sở lý luận chung về hoạt động xuất khẩu hàng hoá của  
doanh nghiệp trong cơ chế thị trường.  
Chương II: Thực trạng kinh doanh xuất khẩu thịt lợn của TCT.  
Chương III: Giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu thịt lợn của TCT.  
CHƯƠNG I:  
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU  
HÀNG HOÁ CỦA DOANH NGHIỆP TRONG CƠ CHẾ THỊ  
TRƯỜNG.  
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG  
1.1. Khái niệm:  
Danh mục sản phẩm là tập hợp tất cả các chủng loại hàng hoá và các đơn  
vị hàng hoá do một người bán cụ thể đem chào bán cho người mua. Danh mục  
hàng hoá được phản ánh qua bề rộng, mức độ phong phú, bề sâu và mức độ hài  
hoà của nó.  
Bề rộng của danh mục sản phẩm là tổng thể số các chủng loại hàng hoá  
do công ty sản xuất.  
Mức độ phong phú của danh mục sản phẩm là tổng số những mặt hàng  
thành phần của nó.  
Bề sâu của danh mục sản phẩm là tổng số các đơn vị sản phẩm cụ thể  
được chào bán trong từng mặt hàng riêng của một chủng loại.  
Mức độ hài hoà của danh mục hàng hoá phản ánh mức độ gần gũi của  
hàng hoá thuộc các nhóm chủng loại hàng hoá khác nhau xét theo góc độ mục  
đích sử dụng cuối cùng, hoặc những yêu cầu về tổ chức sản xuất, các kênh phân  
phối hay một tiêu chuẩn nào đó.  
Xuất khẩu là hoạt động bán hàng hoặc dịch vụ của một quốc gia này sang  
một quốc gia khác nhằm phát triển sản xuất, kinh doanh và đời sống. Song hoạt  
động này có những nét riêng phức tạp hơn trong nước như giao dịch với những  
người có quốc tịch khác nhau, thị trường rộng lớn khó kiểm soát, mua bán qua  
trung gian nhiều, đồng tiền thanh toán thường là ngoại tệ mạnh và hàng hoá phải  
vận chuyển qua biên giới, cửa khẩu các quốc gia khác nhau nên phải tuân thủ  
theo các tập quán quốc tế cũng như luật lệ từng địa phương khác nhau.  
1.2. Đặc điểm của xuất khẩu ở doanh nghiệp thương mại.  
Cùng với nhập khẩu, xuất khẩu là một trong hai hình thức cơ bản, quan  
trọng nhất của thương mại quốc tế. Nó không phải là hành vi bán hàng riêng lẻ  
mà là cả một hệ thống các quan hệ mua bán phức tạp có tổ chức cả bên trong lẫn  
bên ngoài nhằm mục tiêu lợi nhuận, thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển và  
chuyển đổi cơ cấu kinh tế.  
Hoạt động xuất khẩu đã xuất hiện từ rất lâu đời và ngày càng phát triển.  
Từ hình thức đơn giản đầu tiên là hàng đổi hàng, ngày nay hoạt động xuất khẩu  
đang diễn ra rất sôi động với nhiều hình thức phong phú đa dạng hơn như hợp  
tác sản xuất và gia công quốc tế, chuyển khẩu, tạm nhập tái xuất, làm các dịch  
vụ xuất khẩu, đại lý, uỷ thác xuất khẩu...  
Hoạt động xuất khẩu diễn ra trên mọi lĩnh vực, trong mọi điều kiện kinh  
tế, từ xuất khẩu hàng hoá tiêu dùng đến tư liệu sản xuất, máy móc thiết bị và  
công nghệ kỹ thuật cao. Tất cả các hoạt động đó đều có chung một mục đích là  
đem lại lợi ích cho các nước tham gia.  
Hoạt động xuất khẩu được tổ chức, thực hiện với nhiều nghiệp vụ, nhiều  
khâu từ điều tra thị trường nước ngoài, lựa chọn hàng hoá xuất khẩu, thương  
nhân giao dịch, các bước tiến hành giao dịch đàm phán, ký kết hợp đồng, tổ  
chức thực hiện hợp đồng cho đến khi hàng hoá chuyển đến cảng chuyển giao  
quyền sở hữu cho người mua, hoàn thành thanh toán. Mỗi khâu, mỗi nghiệp vụ  
này phải được nghiên cứu đầy đủ, kỹ lưỡng, đặt chúng trong mối quan hệ lẫn  
nhau, tranh thủ nắm bắt những lợi thế nhằm đảm bảo hiệu quả cao nhất, phục vụ  
đầy đủ và kịp thời cho sản xuất và tiêu dùng trong nước.  
Đối với người tham gia hoạt động xuất khẩu, trước khi bước vào nghiên  
cứu, thực hiện các khâu nghiệp vụ phải nắm bắt được các thông tin về nhu cầu  
hàng hoá, thị hiếu, tập quán tiêu dùng giá cả, xu hướng biến động của nó ở thị  
trường nước ngoài. Ngoài ra vấn đề mà những người tham gia hoạt động xuất  
khẩu cần quan tâm là những tập tục, thói quen, những rào cản văn hoá v.v… của  
mỗi quốc gia nhập khẩu. Những điều đó phải trở thành nếp thường xuyên trong  
tư duy mỗi nhà kinh doanh Thương mại Quốc tế.  
2. Các hình thức xuất khẩu chủ yếu của doanh nghiệp.  
Cùng với quá trình phát triển lâu dài của mình, các hình thức kinh doanh  
xuất khẩu ngày càng trở nên phong phú và đa dạng. Hầu hết các hình thức đều  
cố gắng khai thác tối đa những lợi thế do xuất khẩu mang lại. Tuy nhiên trong  
điều kiện nền kinh tế như nước ta hiện nay việc huy động tất cả những nguồn  
lực, những hình thức xuất khẩu chưa thực sự được khai thác tối đa, các hình  
thức xuất khẩu của các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu còn nghèo nàn  
và chưa sử dụng được các nguồn lực trong nước để xuất khẩu có hiệu quả cao  
như các nước khác trong khu vực. Đây cũng thực tế mà TCT đang phải đối mặt,  
tuy nhiên với việc hỗ trợ của nhà nước TCT đang ngày dần hoàn thiện mình và  
trở thành mũi nhọn hàng đầu trong lĩnh vực chăn nuôi và xuất khẩu thức ăn.m  
Theo Nghị định 33/CP (19/ 4/ 1994) thì hoạt động xuất khẩu ở nước ta  
bao gồm các hình thức chủ yếu sau đây:  
2.1- Xuất khẩu trực tiếp:  
Là hình thức mà nhà xuất khẩu gặp trực tiếp hoặc quan hệ trực tiếp qua  
điện tín để thoả thuận trực tiếp về hàng hoá, gía cả cũng như các biện pháp giao  
dịch với người nhập khẩu. Những nội dung này được thoả thuận một cách tự  
nguyện, không ràng buộc với lần giao dịch trước, việc mua không nhất thiết phải  
gắn liền với việc bán. Các công việc chủ yếu của loại hình này là nhà xuất khẩu  
phải tìm hiểu thị trường tiếp cận khách hàng, người nhập khẩu sẽ hỏi giá và đặt  
hàng, nhà xuất khẩu chào giá, hai bên kết thúc quá trình hoàn giá và ký hợp  
đồng. Xuất khẩu trực tiếp đòi hỏi đầu tư lớn và có mức độ rủi ro cao. Tuy nhiên  
xuất khẩu trực tiếp cho phép hy vọng đạt được mức lợi nhuận cao. Có nhiều giải  
pháp có thể lựa chọn :  
- Tổ chức một bộ phận xuất khẩu riêng của công ty. Hình thức này cho  
phép công ty có thể kiểm soát dễ dàng hoạt động xuất khẩu, tạo ra một sự thống  
nhất trong quản lý.  
- Thành lập một chi nhánh xuất khẩu ở nước ngoài. Giải pháp này giúp  
việc xuất khẩu trở lên thuận tiện hơn, dễ dàng tiếp cận với những khách hàng  
mục tiêu. Ngoài ra việc lựa chọn giải pháp này sẽ giải quyết phần nào vấn đề rào  
cản về văn hoá.  
- Sử dụng đại diện thương mại quốc tế.  
- Ký hợp đồng với các hãng phân phối của nước ngoài.  
2.2. Xuất khẩu gián tiếp (thông qua trung gian):  
Phương thức đơn giản nhất là xuất khẩu một phần sản phẩm ra thị trường  
bên ngoài. Xuất khẩu thụ động là chỉ xuất khẩu xản phẩm dư thừa ra thị trường  
nước ngoài. Xuất khẩu chủ động là doanh nghiệp mong muốn tấn công vào thị  
trường nhất định. Trong cả hai trường hợp, doanh nghiệp tiếp tục sản xuất tại  
nước mình miễn là sản phẩm phù hợp với thị trường xuất khẩu.  
Ban đầu, các doanh nghiệp thường áp dụng phương thức xuất khẩu gián  
tiếp là xuất khẩu thông qua trung gian chuyên hoạt động trong lĩnh vực xuất  
nhập khẩu. Phương thức này không đòi hỏi vốn đầu tư lớn và do đó rủi ro thấp.  
Tuy nhiên người trung gian thưòng chỉ lựa chọn mặt hàng xuất khẩu có lợi nhất  
cho họ và thường nảy sinh mâu thuẫn về phân chia lợi nhuận giữa người sản  
xuất và người trung gian. Khác với hình thức xuất khẩu trực tiếp, trong hoạt  
động xuất khẩu uỷ thác tất cả mọi việc kiến lập quan hệ giữa người xuất khẩu và  
người nhập khẩu cũng như việc qui định các điều kiện mua bán phải thông qua  
một người thứ 3 được gọi là người nhận uỷ thác. Người nhận uỷ thác tiến hành  
hoạt động xuất khẩu với danh nghĩa của mình nhưng mọi chi phí đều do bên có  
hàng xuất khẩu, bên uỷ thác thanh toán. Về bản chất chi phí trả cho bên nhận uỷ  
thác chính là tiền thù lao trả cho đại lý. Doanh nghiệp cũng không thể kiểm soát  
việc tiêu thụ sản phẩm ra nước ngoài.  
*Xuất khẩu gián tiếp có 4 khả năng lựa chọn sau:  
-Xuất khẩu thông qua hãng xuất khẩu trong nước.  
-Xuất khẩu thông qua đại lý xuất khẩu.  
-Xuất khẩu thông qua hiệp hội xuất khẩu.  
-Xuất khẩu thông qua việc sử dụng kênh phân phối của người thứ ba đã  
tồn tại để tiêu thụ sẩn phẩm của họ.  
2.3. Buôn bán đối lưu:  
Đây là phương thức giao dịch trong đó xuất khẩu phải kết hợp chặt chẽ  
với nhập khẩu. Nhà xuất khẩu đồng thời là nhà nhập khẩu, mục đích để thu về  
hàng hoá có giá trị tương đương với hàng xuất khẩu bởi vậy nó còn gọi là  
phương thức đổi hàng. Trong hoạt động xuất khẩu này yêu cầu cân bằng về mặt  
hàng, giá cả, tổng giá trị và điều kiện giao hàng được đặc biệt chú ý.  
2.4. Gia công quốc tế:  
Là phương thức kinh doanh người đặt mua gia công ở nước ngoài cung  
cấp máy móc, thiết bị, nguyên phụ liệu theo mẫu hàng và định mức trước.  
Người nhận gia công làm theo yêu cầu của khách hàng, toàn bộ sản phẩm  
làm ra người nhận gia công sẽ giao lại toàn bộ cho người đặt gia công và để  
nhận tiền gia công gọi là phí gia công.  
Gia công quốc tế là hoạt động xuất nhập khẩu gắn liền với hoạt động sản  
xuất, thị trường nước ngoài là nơi cung cấp nguyên vật liệu cũng chính là nơi  
tiêu thụ mặt hàng đó, đồng thời nó có tác dụng là xuất khẩu lao động tại chỗ,  
trường học về kỹ thuật và quản lý và là quá trình tích luỹ vốn cho những nước ít  
vốn.  
2.5. Tạm nhập tái xuất:  
Tái xuất là xuất khẩu trở lại nước ngoài những hàng hoá đã được nhập  
khẩu nhưng chưa qua dỡ bến ở nước tái xuất.  
Nước xuất khẩu  
Nước nhập khẩu  
Nước tái xuất  
Nhiệm vụ này là nghiệp vụ giao dịch 3 bên.  
Hình thức chuyển khẩu là hàng hoá đi thẳng từ nước xuất khẩu sang nước  
nhập khẩu không đi qua nước tái xuất.  
Tiền tệ  
Nước xuất khẩu  
Nước nhập khẩu  
Hàng hoá  
2.6. Xuất khẩu theo nghị định thư (xuất khẩu trả nợ)  
Đây là hình thức mà doanh nghiệp xuất khẩu theo chỉ tiêu của Nhà nước  
giao cho để tiến hành một hoặc một số mặt hàng nhất định cho chính phủ nước  
ngoài trên cơ sở nghị định thư đã ký giữa hai chính phủ.  
Hình thức này cho phép doanh nghiệp tiết kiệm được các khoản chi phí  
trong việc nghiên cứu thị trường, tìm kiếm bạn hàng. Mặt khác, thực hiện hình  
thức này thường không có sự rủi ro trong thanh toán.  
3. Vai trò của xuất khẩu đối với doanh nghiệp sản xuất kinh doanh.  
Nhìn nhận dưới góc độ của một doanh nghiệp thì hoạt động xuất khẩu  
thực chất là hoạt động bán hàng hay hoạt động tiêu thụ sản phẩm của doanh  
nghiệp trên phạm vi quốc tế. Như vậy việc xuất khẩu sản phẩm ra thị trường  
nước ngoài lằm trong chiến lược tiêu thụ của doanh nghiệp, tuy nhiên nó khác  
với tiêu thụ trong nước là: Bán hàng hoá ở những thị trường khác nhau về văn  
hoá, ngôn ngữ, luật pháp, chính sách, tập quán tín ngưỡng ... Nhưng cũng chính  
về sự khác biệt đó mà mở ra cho doanh nghiệp một cơ hội phát triển kinh doanh  
lớn hơn và lâu dài hơn. Tuy nhiên để có thể khẳng định được sản phẩm của  
mình trên thị trường quốc tế đòi hỏi bất kỳ doanh nghiệp nào cũng phải chiến  
lược nghiên cứu cụ thể và một sự đầu tư nhất định.  
Tiêu thụ sản phẩm là một bộ phận quan trọng của hoạt động thương mại  
doanh nghiệp bởi hàng hoá được sản xuất ra, mua về phải được tiêu thụ, đó là  
điều kiện quyết định sự tồn tại của một doanh nghiệp. Trong cơ chế thị trường,  
với việc gia tăng hàng hoá ngày càng nhiều trên thị trường, nhiều doanh nghiệp  
đã chuyển hướng từ sản xuất sang tiêu thụ. Những cố gắng này càng ngày càng  
có ý nghĩa to lớn hơn trong việc thực hiện mục đích kinh doanh. Từ đó, khái  
niệm MARKETING xuất hiện với nghĩa: mọi cố gắng của doanh nghiệp đều  
hướng đến mục đích cần thiết là tiêu thụ sản phẩm, hướng về những thị trường  
đang còn bỏ ngỏ. Hiện nay trên thị trường xuất hiện nhiều các đối thủ cạnh tranh  
đây cũng là một cơ hội để doanh nghiệp khẳng định được vị thế của mình, tuy  
nhiên nguy cơ bị mất thị trường là rất lớn. Một thị trường không thể tồn tại quá  
nhiều các đối thủ cạnh tranh vì vậy xu thế xuất khẩu hàng hoá ra thị trường quốc  
tế ngày càng phát huy được tác dụng làm giảm bớt sự tắc nghẹn trong khâu tiêu  
thụ của doanh nghiệp.  
Như vậy xuất khẩu đóng góp vào quá trình dịch chuyển cơ cấu kinh tế,  
thúc đẩy sản xuất phát triển. Đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu sẽ giúp các nước  
kém phát triển chuyển dịch cơ cấu kinh tế, từ nông nghiệp sang công nghiệp phù  
hợp với xu hướng phát triển của nền kinh tế thế giới.  
Hoạt động xuất khẩu đóng vai trò quan trọng vì nó tạo điều kiện mở rộng  
khả năng tiêu dùng của một nước. Ngoại thương cho phép một nước có thể sử  
dụng tất cả các mặt hàng với số lượng nhiều hơn giới hạn khả năng sản xuất.  
Xuất khẩu còn có vai trò thúc đẩy chuyên môn hoá, tăng cường hiệu quả  
sản xuất của từng quốc gia. Khoa học công nghệ ngày càng phát triển thì phân  
công lao động ngày càng sâu sắc. Ngày nay đã có những sản phẩm mà việc chế  
tạo từng bộ phận được thực hiện ở nhiều nước khác nhau. Để hoàn thiện được  
sản phẩm đó, người ta phải tiến hành xuất khẩu linh kiện từ nước này sang nước  
khác để lắp ráp.  
Đối với một đất nước cũng không nhất thiết sản xuất tạo ra đủ mặt hàng  
mà mình cần. Thông qua xuất khẩu, họ có thể tập trung vào sản xuất một vài  
loại mà mình có lợi thế sau đó mang ra trao đổi những thứ mà mình cần.  
Rõ ràng ta thấy ở đây xuất khẩu là rất quan trọng trong việc thúc đẩy  
chuyên môn hoá sản xuất, giúp cho các nước khai thác được triệt để lợi thế của  
mình tạo điều kiện cho các quốc gia tiến hành chuyên môn hoá sau.  
Với đặc điểm đồng tiền thanh toán là ngoại tệ đối với một hoặc cả hai  
bên, xuất khẩu nhằm tăng lợi nhuận cho mỗi quốc gia, đặc biệt đối với những  
nước nghèo, đồng tiền có giá trị thấp thì đó là nhân tố tích cực tới cung cầu  
ngoại tệ, tạo điều kiện cho nền sản xuất trong nước phát triển.  
Đồng thời nó cũng là một nhân tố quyết định sự tăng trưởng phát triển  
kinh tế. Thực tế chứng minh những nước phát triển là những nước có nền ngoại  
thương năng động và phát triển có những thế mạnh nhất định về xuất khẩu.  
Hoạt động xuất khẩu với nhiều hình thức đa dạng, thể hiện sự phát triển  
của phân công lao động quốc tế. Vì vậy nó đã chiếm vị trí trung tâm trong các  
hoạt động kinh tế đối ngoại và thực hiện các chức năng cơ bản sau:  
* Lưu thông hàng hoá trong nước với thị trường nước ngoài.  
* Tạo nguồn vốn kỹ thuật từ bên ngoài có lợi trong quá trình sản xuất  
trong nước. Xuất khẩu hàng hoá thu nguồn ngoại tệ cho đất nước là nguồn vốn  
vật chất cần thiết cho hiện đại hoá và công nghiệp hoá. Trong khi đó, nhập khẩu  
tạo điều kiện cho việc tiếp nhận những dây chuyền công nghệ, kỹ thuật tiên tiến  
từ nước ngoài, làm tăng hiệu quả sản xuất trong nước.  
* Xuất khẩu có thể làm thay đổi cơ cấu sản xuất của tổng sản phẩm xã hội  
và tổng thu nhập quốc dân nhằm thích ứng với nhu cầu tích luỹ. Xuất khẩu thúc  
đẩy khoa học phát triển làm tăng C giá trị máy móc thiết bị và giảm V giá trị  
lao động cấu thành trong giá trị hàng hoá, chuyển dịch cơ cấu hữu cơ của tư bản.  
* Xuất khẩu làm tăng hiệu quả của nền kinh tế bằng việc tạo ra môi  
trường thuận lợi cho sản xuất kinh doanh, tăng khả năng khai thác lợi thế của  
mỗi quốc gia.  
* Xuất khẩu tác động trực tiếp đến việc giải quyết công ăn việc làm và cải  
thiện đời sống nhân dân tác động của xuất khẩu ảnh hưởng rất nhiều tới các lĩnh  
vực của cuộc sống như: giúp làm phong phú mặt hàng trong nước, nâng cao sự  
chọn lựa cho người tiêu dùng. sản xuất hàng hoá xuất khẩu sẽ thu hút được hàng  
triệu lao động vào làm việc tạo ra thu nhập ổn định, đồng thời tạo ra ngoại tệ để  
nhập khẩu hàng tiêu dùng, đáp ứng yêu cầu ngày càng phong phú của nhân dân.  
* Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng các quan hệ hợp tác kinh tế trên cơ sở vì  
lợi ích mỗi bên, đồng thời gắn liền sản xuất trong nước với phân công lao động  
quốc tế. Xuất khẩu là một trong những nội dung chính trong chính sách đối  
ngoại của nước ta đối với các nước trên thế giới vì mục tiêu dân giàu nước  
mạnh. Như vậy có thể nói đẩy mạnh xuất khẩu sẽ tạo động lực cần thiết cho việc  
giải quyết những vấn đề thiết yếu của nền kinh tế. Điều này nói lên tính khách  
quan của việc tăng cường xuất khẩu trong quá trình phát triển nền kinh tế.  
* Thông qua xuất khẩu các doanh nghiệp trong nước có thêm rất nhiều cơ  
hội để tiêu thụ sản phẩm của mình với khối lượng lớn và với các chủng loại  
hàng hoá phong phú đa dạng khác nhau.  
+ Nhờ có xuất khẩu mà doanh nghiệp luôn luôn sẵn sàng đổi mới và hoàn  
thiện cơ cấu sản xuất kinh doanh phù hợp với thị trường và theo kịp sự phát  
triển chung của thế giới.  
+ Doanh nghiệp trong quá trình tiền hành hoạt động xuất khẩu có nhiều  
cơ hội mở rộng quan hệ làm ăn buôn bán với nhiều đối tác nước ngoài. Qua đó  
sẽ tiếp thu được nhiều kinh nghiệm trong việc kinh doanh , quản lý doanh  
nghiệp của mình.  
+>Nguồn ngoại tệ do xuất khẩu mang lại giúp doanh nghiệp có thêm  
nguồn tài chính mạnh để tái đầu tư vào quá trình sản xuất cả về chiều rộng cũng  
như chiều sâu.  
+>Doanh nghiệp có thể mang lại lợi ích cho xã hội nhiều hơn thông qua  
sản xuất hàng xuất khẩu thu hút nhiều lao động tạo thu nhập ổn định, đồng thời  
tạo ra thu nhập để nhập khẩu vật tư, tư liệu sản xuất, vật phẩm tiêu dùng phục vụ  
cho sản xuất cũng như đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người dân.  
II. NỘI DUNG CỦA HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU ĐỐI VỚI DOANH  
NGHIỆP.  
Xuất khẩu là hoạt động hết sức phức tạp và chịu ảnh hưởng của nhiều  
nhân tố khác nhau. Hoạt động xuất khẩu phải trải qua nhiều khâu ràng buộc lẫn  
nhau và đòi hỏi nhà xuất khẩu phải hết sức thận trọng, linh hoạt để nắm bắt được  
thời cơ, giảm rủi ro và thu được lợi nhuận cao nhất. Tuỳ theo các loại hình xuất  
khẩu khác nhau mà số bước thực hiện cũng như các hình thức tiến hành có  
những nét khác nhau. Song về cơ bản, nội dung của hoạt động xuất khẩu thường  
bao gồm những vấn đề chủ yếu sau đây:  
1- Nghiên cứu thị trường:  
Nghiên cứu thị trường là công việc cần thiết đầu tiên đối với bất cứ một  
nhà kinh doanh nào muốn tham gia vào thị trường thế giới. Việc nghiên cứu thị  
trường tốt sẽ tạo khả năng cho các nhà kinh doanh nhận ra được quy luật vận  
động của từng loại hàng hoá cụ thể thông qua sự biến đổi nhu cầu, hàng cung  
ứng, giá cả trên thị trường, qua đó giúp nhà kinh doanh giải quyết được các vấn  
đề của thực tiễn kinh doanh cũng như yêu cầu của thị trường.  
Nghiên cứu thị trường theo nghĩa rộng là quá trình điều tra để tìm thị  
trường cho một sản phẩm cụ thể hay một nhóm sản phẩm, kể cả phương pháp để  
thực hiện mục tiêu đó. Hoặc cũng có thể hiểu đó là quá trình thu nhập thông tin,  
số liệu về thị trường, so sánh, phân tích số liệu đó và rút ra kết luận. Những kết  
luận này sẽ giúp các nhà quản lý đưa ra quyết định đúng đắn để lập kế hoạch  
MARKETING... Chính vì thế, nghiên cứu thị trường là một hoạt động đóng vai  
trò ngày càng quan trọng giúp các nhà kinh doanh đạt hiệu quả cao hơn trong  
hoạt động xuất khẩu của mình.  
Có thể nói nghiên cứu thị trường là một công việc khá phức tạp vì nó trải  
ra trong một khoảng không gian rất rộng với sự khác biệt về lịch sử, điều kiện  
địa lý tự nhiên và cả môi trường văn hoá. Nó đòi hỏi người nghiên cứu phải có  
khả năng phân tích, giải thích được những hành vi, thái độ cơ bản trong kinh  
doanh và tiêu dùng của thị trường... Chính vì thế, việc nghiên cứu thị trường  
Quốc tế gắn liền với chi phí cao và phải đầu tư một lượng thời gian lớn.  
Đối với việc xuất khẩu thịt lợn ra thị trường nước ngoài đòi hỏi các nhà  
nghiên cứu thị trường phải lắm rõ tất cả các đặc tính, mức tiêu thụ, khả năng  
cạnh tranh của sản phẩm v..v. Sản phẩm thịt lợn khi xuất khẩu ra thị trường thế  
giới sẽ có nhiều khó khăn trong việc thống nhất độ an toàn, sự kiểm định về chất  
lượng chung của hai bên. Vì thế để lựa chọn được thị trường phù hợp cho sản  
phẩm của mình bắt buộc mỗi doanh nghiệp phải có sự đầu tư và nghiên cứu cụ  
thể thị trường muốn tung sản phẩm vào.  
Nghiên cứu thị trường thường được tiến hành theo hai phương pháp  
chính:  
- Phương pháp nghiên cứu tại bàn: Là thu nhập các thông tin từ các nguồn tài  
liệu đã được xuất bản công khai hay bán công khai, xử lý các thông tin đó.  
Đây là phương pháp phổ thông nhất vì nó đỡ tốn kém và phù hợp với khả  
năng của những người xuất khẩu mới tham gia vào thị trường thế giới. Tuy  
nhiên nó cũng có hạn chế như chậm và mức độ tin cậy không lớn.  
- Phương pháp nghiên cứu tại hiện trường: Là việc thu nhập thông tin chủ  
yếu thông qua tiếp xúc với mọi người trên hiện trường. Đây là một phương  
pháp đem lại những thông tin chính xác, thường xuyên được xử lý giúp  
người xử dụng có phản ứng linh hoạt hơn. Song đây cũng là một hoạt động  
tốn kém và không phải ai cũng có đủ trình độ để làm được.  
Việc nghiên cứu thị trường có thể hiểu một cách đơn giản nhất là tìm  
kiếm câu trả lời thoả đáng cho những câu hỏi mà doanh nghiệp xuất khẩu buộc  
phải làm:  
* Phân bố dân cư trong địa bàn ra sao ?  
* Mức thu nhập của dân cư ?  
* Trình độ văn hoá và nghề nghiệp phổ biến của dân cư.  
* Phong tục, tập quán của thị trường.  
* Yếu tố chính của thị trường.  
* Sản phẩm cùng chủng loại hoặc tương tự như sản phẩm của doanh  
nghiệp đã xuất hiện trên thị trường chưa ?  
* Phản ứng của người tiêu dùng với sản phẩm đó.  
* Sức tiêu thụ những sản phẩm cùng chủng loại trên thị trường ?  
* Những khách hàng nào sẽ có nhu cầu về sản phẩm của doanh nghiệp ?  
* Người tiêu dùng muốn gì và cần gì ?  
* Làm thế nào để thoả mãn nhu cầu và thị hiếu của khách hàng ?  
* Sức mua của thị trường với sản phẩm của doanh nghiệp.  
* Phương thức phân phối sản phẩm và mạng lưới tiêu thụ nào sẽ phù hợp  
và đạt hiệu quả nhất.  
* Thời điểm nào sẽ đưa sản phẩm ra thị trường ?  
Sau khi giải đáp được những câu hỏi trên, nhà xuất khẩu cần phải có kế  
hoạch đưa sản phẩm ra thị trường một cách cụ thể, chu đáo.  
Việc giải đáp những câu hỏi trên thường không đồng nhất giữa những  
người được giao nhiệm vụ nghiên cứu, thăm dò và khảo sát thị trường. Điều này  
cũng dễ hiểu bởi trình độ nhận thức và khả năng của mỗi người khác nhau. Do  
đó, không thể cử duy nhất một người đi tìm hiểu thị trường mà phải cử nhiều  
người và trên cơ sở đánh giá của mỗi người để tìm ra những ý kiến đồng nhất,  
những ý kiến xác đáng nhất (trong những ý kiến đồng) sẽ đánh giá được thực  
chất nhu cầu, thị trường và sức mua của người tiêu dùng.  
Một điều mà nhà xuất khẩu phải luôn ghi nhớ rằng nghiên cứu thị trường  
không có nghĩa là xác định nhu cầu, thị hiếu, sức mua ... Hiện nay tại thị trường  
mà phải cao hơn thế, xa hơn thế là tìm được khuynh hướng của thị trường để sản  
phẩm của doanh nghiệp luôn luôn hấp dẫn và thuyết phục người tiêu dùng.  
Trong quá trình nghiên cứu, khảo sát thị trường điều quan trọng hơn cả  
đối với nhà sản xuất là tìm hiểu sự biến động giá cả trên thị trường quốc tế của  
mặt hàng xuất khẩu. Vì vậy, nhà xuất khẩu cần có đầy đủ thông tin về vấn đề  
này để có những quyết định kịp thời. Bên cạnh đó, do hàng hoá xuất khẩu  
thường phải đi qua các nước, các khu vực khác nhau, do đó sự thay đổi giá cả  
của hàng hoá chủ yếu phụ thuộc vào các khoản chi phí sau:  
* Giá trị hàng hoá đơn thuần.  
* Bao bì.  
* Thuế xuất khẩu.  
* Chi phí vận chuyển, bảo quản.  
* Chi phí bảo hiểm.  
* Chi phí khác.  
Hiện nay Tổng công ty chăn nuôi VN đã dần khẳng định được vị thế của  
mình trên thị trường thế giới, sản phẩm của công ty được xuất khẩu sang một số  
thị trường chính như: Trung Quốc, HongKong, Nga, Nhật, v.v…Tuy nhiên do  
yêu cầu ngày càng cao của người dân cũng như do sự tiến bộ của khoa học kỹ  
thuật mà yêu cầu chất lượng thịt lợn ngày càng cao. Tổng công ty chăn nuôi VN  
đang đứng trước nhiều khó khăn nhất định, những khó khăn về việc áp dụng dây  
chuyền công nghệ trong khâu chế biến, cũng như trong quá trình chăn nuôi, vì  
thế khi xuất khẩu thịt lợn ra thị trường thế giới công ty đã mất đi rất nhiêu lợi  
thế cạnh tranh của mình như giá xuất khẩu thường cao, chất lượng của sản phẩm  
chưa đáp ứng được một số thị trường khó tính như Nhật, Mỹ, Đài Loan,v.v…Để  
hạn chế nhược điểm đó thì TCT đã chọn cho mình những thị trường phù hợp với  
khả năng cạnh tranh cũng như yêu cầu về chất lượng sản phẩm. Ngoài ra TCT  
còn đưa ra chiến lược kinh doanh phù hợp.  
2 - Xây dựng chiến lược và kế hoạch kinh doanh:  
* Trên cơ sở những kết quả thu được trong quá trình nghiên cứu tiếp cận  
thị trường, đơn vị kinh doanh xây dựng và kế hoạch kinh doanh của mình. Việc  
xây dựng bao gồm: Đánh giá tình hình thị trường, sức mua, khả năng cạnh tranh,  
thị hiếu của người tiêu dùng , đưa ra bức tranh tổng quát về hoạt động kinh  
doanh, những thuận lợi và khó khăn.  
* Lựa chọn mặt hàng, thời cơ, điều kiện và phương thức kinh doanh.  
* Đề ra mục tiêu cụ thể như: Bán sản phẩm ở thị trường nào, bán bao  
nhiêu và với giá bao nhiêu? ...  
* Đề ra biện pháp và công cụ thực hiện nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra.  
* Sơ bộ đánh giá hiệu quả kinh tế của việc kinh doanh thông qua một số  
các chỉ tiêu chủ yếu sau:  
- Chỉ tiêu tỷ suất ngoại tệ.  
- Chỉ tiêu thời gian hoà vốn.  
- Chỉ tiêu tỷ suất doanh lợi.  
- Chỉ tiêu điểm hoà vốn.  
3 - Tổ chức thực hiện kế hoạch xuất khẩu.  
3.1 - Tạo nguồn hàng xuất khẩu.  
Tạo nguồn hàng cho xuất khẩu là toàn bộ hoạt động từ đầu tư, sản xuất  
cho các nghiệp vụ nghiên cứu thị trường, ký kết hợp đồng, thực hiện hợp đồng,  
vận chuyển, bảo quản ... Nhằm tạo ra hàng hoá có đầy đủ tiêu chuẩn cần thiết  
cho xuất khẩu. Như vậy công tác tạo nguồn cho xuất khẩu có thể được chia  
thành hai hoạt động chính:  
* Hoạt động sản xuất hàng hoá xuất khẩu. Đối với doanh nghiệp sản xuất  
hàng hoá xuất khẩu thì đây là hoạt động cơ bản và quan trọng nhất.  
* Những hoạt động nghiệp vụ phục vụ cho công tác tạo ra nguồn hàng  
cho xuất khẩu, thường do các tổ chức ngoại thương làm chức năng trung gian.  
Như đã biết, phần lớn các hoạt động nghiệp vụ tổ chức thu mua tạo nguồn  
hàng xuất khẩu chỉ làm tăng thêm chi phí thuộc chi phí lưu thông chứ không làm  
tăng thêm giá trị sử dụng của hàng hoá. Do vậy các nhà xuất khẩu cần nghiên  
cứu để đơn giản hoá các nghiệp vụ nhằm tăng lợi nhuận cho mình.  
Đối với các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu, hệ thống các đại lý thu  
mua hàng xuất khẩu được coi là nhân tố quan trọng mang tính quyết định trực  
tiếp đến chất lượng của hàng xuất khẩu, đến tiến độ giao hàng, thực hiện hợp  
đồng, uy tín của doanh nghiệp và hiệu quả kinh doanh. Thực tế cho thấy một  
doanh nghiệp xuất khẩu mạnh không phải chỉ vì dài vốn mà là do có hệ thống  
khách hàng mạnh, hệ thống đại lý thu mua rộng khắp, hoạt động thường xuyên,  
bám sát thị trường.  
Công tác thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu là hệ thống các công  
việc bao gồm:  
- Nghiên cứu nguồn hàng xuất khẩu:  
Đây là việc nghiên cứu khả năng cung cấp hàng xuất khẩu trên thị trường,  
được xác định bởi nguồn hàng thực tế và nguồn hàng tiềm năng. Trong đó  
nguồn hàng thực tế là nguồn đã có và đang sẵn sàng đưa vào lưu thông. Nguồn  
hàng tiềm năng là nguồn hàng chưa xuất hiện, nó có thể có hoặc không xuất hiện  
trên thị trường. Với nguồn hàng này, nhà xuất khẩu phải có đầu tư, có đơn đặt  
hàng với nhà sản xuất, và đây là nguồn hàng rất quan trọng trong xuất khẩu.  
Nghiên cứu nguồn hàng xuất khẩu còn nhằm xác định chủng loại mặt  
hàng, kích cỡ, mẫu mã , công cụ, giá cả, thời vụ những đặc điểm, tính năng riêng  
của từng mặt hàng. Ngoài ra doanh nghiệp còn phải xác định được xem mặt  
hàng dự định xuất khẩu có thể đáp ứng được yêu cầu của thị trường nước ngoài  
về những chỉ tiêu kỹ thuật, kinh tế hay không ?  
Mặt khác nghiên cứu nguồn hàng xuất khẩu còn phải xác định được giá cả  
hàng hoá đó trong nước, so sánh với giá quốc tế để dự tính được mức lãi sẽ thu  
được. Bên cạnh đó, người làm công tác này cũng cần tìm hiểu chính sách quản  
lý của Nhà nước về mặt hàng đó như thế nào ?  
Tất cả những công việc trên sẽ giúp doanh nghiệp hạn chế được rủi ro của  
thị trường, tiến hành khai thác ổn định nguồn hàng trong khoảng thời gian hợp  
lý, làm cơ sở chắc chắn cho việc ký kết và thực hiện hợp đồng xuất khẩu.  
- Tổ chức hệ thống thu mua hàng xuất khẩu.  
Xây dựng một hệ thống thu mua thông qua đại lý và chi nhánh mình,  
doanh nghiệp xuất khẩu sẽ tiết kiệm được chi phí thu mua, nâng cao năng xuất  
và hiệu quả thu mua.  
Hệ thống thu mua bao gồm mạng lưới các đại lý, hệ thống kho tàng ở các  
địa phương, các khu vực có loại hàng thu mua. Chi phí này khá lớn, do vậy  
doanh nghiệp phải có sự lựa chọn cân nhắc trước khi chọn đại lý và xây dựng  
kho, đặc biệt là những kho đòi hỏi phải trang bị những phương tiện hiện đại, đắt  
tiền. Hệ thống thu mua đồng thời phải gắn với các phương án vận chuyển hàng  
hoá, với điều kiện giao thông của các địa phương.  
Ngoài ra đầu tư cho người sản xuất cũng là một cách làm chắc chắn, lâu  
dài để đảm bảo có nguồn hàng ổn định trước sự tranh mua trên thị trường nội  
địa. Tuy vậy, do yêu cầu của đầu tư nên các doanh nghiệp phải có vốn lớn và  
cũng chứa đựng nhiều rủi ro do sự biến động của thị trường, nhất là khi giá cả  
trên thị trường hạ xuống dưới mức kinh doanh có lãi. Trong việc này đòi hỏi các  
doanh nghiệp phải có đội ngũ cán bộ có trình độ kỹ thuật cao, hiểu biết về sản  
phẩm, am hiểu tình hình thị trường. Điều này không phải bao giờ các nhà xuất  
khẩu cũng làm được bởi ngày nay có nhiều sản phẩm thuộc loại kỹ thuật cao,  
phức tạp và rất đa dạng.  
- Ký kết hợp đồng thu mua.  
Phần lớn khối lượng hàng hoá được mua bán giữa các doanh nghiệp ngoại  
thương với các nhà sản xuất hoặc các khách hàng thông qua hợp đồng thu mua,  
đổi hàng, gia công ... Do vậy việc ký kết hợp đồng có ý nghĩa hết sức quan trọng  
trong công tác thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu. Dựa trên những thoả thuận và  
tự nguyện, các bên ký kết hợp đồng làm cơ sở vững chắc đảm bảo cho các hoạt  
động kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra một cách bình thường. Đây chính là  
cơ sở pháp lý cho mối quan hệ giữa doanh nghiệp và người cung cấp hàng.  
- Xúc tiến khai thác nguồn hàng xuất khẩu.  
Sau khi đã ký kết hợp đồng với các khách hàng và các đơn vị sản xuất, nhà  
xuất khẩu phải lập được kế hoạch thu mua, tiến hành sắp xếp các phần việc phải làm  
và chỉ đạo các bộ phận làm việc theo kế hoạch. Cụ thể gồm những phần việc sau:  
- Đưa hệ thống kênh thu mua đã được thiết lập vào hoạt động.  
- Chuẩn bị đầy đủ các thủ tục giấy tờ giao nhận hàng theo hợp đồng đã  
ký.  
- Tổ chức hệ thống kho tàng tại điểm nút của các kênh.  
- Tổ chức vận chuyển hàng theo các địa điểm đã qui định.  
- Chuẩn bị đầy đủ tiền thanh toán.  
Trong quá trình thu mua, nhà xuất khẩu phải ghi bảng biểu để theo dõi  
tiến độ thực hiện kế hoạch thu mua nhằm kịp thời phát hiện ra những ách tắc để  
có biện pháp xử lý kịp thời.  
- Tiếp nhận, bảo quản và xuất kho hàng xuất khẩu.  
Phần lớn hàng hoá trước khi xuất khẩu đều phải qua một hoặc một số kho  
để đảm bảo, phân loại, đóng gói, nhờ làm thủ tục xuất khẩu. Nhà xuất khẩu cần  
chuẩn bị tốt các kho để tiếp nhận hàng xuất khẩu.  
Công tác bảo quản hàng hoá trong kho là một nhiệm vụ quan trọng của  
chủ kho hàng. Chủ kho hàng phải có trách nhiệm không để hàng hư hỏng, đổ vỡ,  
mất mát... trừ khi những sự cố đó là do bất khả kháng gây ra.  
Cuối cùng là công việc xuất kho hàng xuất khẩu. Trong công đoạn này  
cần chú ý nhất là phải có đầy đủ các giấy tờ, hoá đơn hợp lệ.  
3.2 - Đàm phám, ký kết hợp đồng xuất khẩu.  
- Đàm phán là việc bàn bạc trao đổi với nhau các điều kiện mua bán giữa  
các doanh nghiệp xuất nhập khẩu để đi đến thống nhất ký kết hợp đồng. Có  
nhiều hình thức đàm phám khác nhau:  
Đàm phám qua thư tín: Đây là hình thức chủ yếu để giao dịch kinh doanh  
giữa các nhà xuất nhập khẩu. Những cuộc tiếp xúc ban đầu thường là qua thư từ,  
Ngay cả khi hai bên có điều kiện gặp gỡ trực tiếp thì duy trì quan hệ qua thư tín  
thương mại vẫn là cần thiết. So với gặp gỡ trực tiếp thì giao dịch qua thư tín tiết  
kiệm được rất nhiều chi phí. Trong cùng một lúc có thể giao dịch được với nhiều  
khách hàng ở nhiều nước khác nhau. Mặt khác, người viết thư tín cũng có điều  
kiện để cân nhắc suy nghĩ, tranh thủ ý kiến của nhiều người và có thế khéo léo  
dấu kín được ý định của mình. Tuy nhiên, giao dịch bằng thư tín thường mất rất  
nhiều thời gian và do đó có thể bỏ lỡ mất thời cơ mua bán. Người ta có thể sử  
dụng điện tín để khắc phục nhược điểm này.  
Đàm phán bằng gặp gỡ trực tiếp: Gặp gỡ trực tiếp giữa hai bên để trao  
đổi mọi điều kiện buôn bán là một hình thức đặc biệt quan trọng. Hình thức này  
đẩy nhanh tốc độ giải quyết mọi vấn đề giữa hai bên và nhiều khi là lối thoát cho  
những đàm phán bằng thư tín đã kéo dài quá lâu mà không có kết quả. Đàm  
phán bằng gặp gỡ trực tiếp tuy hiệu quả hơn hình thức bằng thư tín, điện tín,  
song đây cũng là hình thức đàm phán khó khăn nhất, đòi hỏi người tiến hành  
đàm phám phải giỏi nghiệp vụ, tự tin, phản ứng nhạy bén đủ tỉnh táo và bình  
tĩnh do xét ý đồ của đối phương.  
- Mặc dù có sự khác nhau giữa các hình thức đàm phán song nhìn chung  
các cuộc đàm phán đều tập trung giải quyết những nội dung sau:  
Chào giá (phát giá): Là việc nhà kinh doanh thể hiện rõ ý định bán hàng  
của mình là thời cơ đề nghị ký kết hợp đồng. Trong chào hàng, nhà xuất khẩu  
phải nêu rõ tên hàng, quy cách, phẩm chất, số lượng, điều kiện, cơ sở giao hàng,  
giá cả ...  
Hoàn giá (mặc cả): Trong trường hợp người nhận được chào hàng không  
chấp nhận hoàn toàn chào hàng đó mà muốn đưa ra đề nghị mới thì đề nghị mới  
gọi là hoàn giá. Mỗi lần giao dịch thường phải trải qua nhiều lần hoàn giá mới đi  
đến kết thúc.  
Chấp nhận: Là sự đồng ý tất cả các điều kiện của chào hàng hoặc sau khi  
đã hoàn giá, do cả hai phía cùng chấp nhận. Khi đó hợp đồng được thành lập.  
Xác nhận: Sau khi hai bên mua bán đã thống nhất thoả thuận với nhau về  
các điều kiện giao dịch, có ghi lại cẩn thận các điều khoản đã thoả thuận rồi gửi  
cho bên kia. Đó là văn bản xác nhận thường được lập thành 2 bản, bên xác nhận  
ký trước rồi gửi cho bên kia. Bên kia ký xong trả lại một bản và giữ lại một bản.  
Sau khi hai bên tiến hành giao dịch đàm phán có kết quả sẽ tiến hành ký  
kết hợp đồng kinh tế - Hợp đồng thương mại Quốc tế. Nội dung của hợp đồng  
phải thể hiện đầy đủ nghĩa vụ và quyền hạn của cả hai bên tham gia ký kết. Hợp  
đồng thể hiện dưới hình thức bằng văn bản là hình thức bắt buộc đối với các đơn  
vị xuất khẩu ở nước ta .  
.3.3 - Tổ chức thực hiện hợp đồng xuất khẩu.  
Sau khi hợp đồng được ký kết, cần xác định rõ trách nhiệm nội dung,  
trình tự công việc làm, bố trí thời gian, bảng biểu theo dõi tiến độ công việc  
không để sai xoát xảy ra.  
- Trình tự thực hiện hợp đồng xuất khẩu bao gồm các bước:  
Sơ đồ: Trình tự thực hiện hợp đồng xuất khẩu.  
Ký hợp đồng  
xut khu  
Xin giy phép  
xut khu  
Chun bhàng  
Kiểm tra  
hoá  
L/C  
Làm thtc  
hi quan  
Kim nghim  
hàng hoá  
Giao hàng lên  
tàu  
Uthác thuê  
tàu  
Mua bo  
him  
Gii quyết  
khiếu ni  
Làm thủ  
tc thanh  
t á  
* Kiểm tra L/C:  
Sau khi hợp đồng xuất khẩu đã được hai bên ký kết, người xuất khẩu cần  
phải kiểm tra lại L/C do người nhập khẩu mở tại ngân hàng có khớp với nội  
dung trong hợp đồng không. Nếu có yêu cầu sửa đổi thì phải thông báo cho  
người mua sửa lại L/C tại ngân hàng mở L/C. Mọi nội dung sửa đổi phải có sự  
xác nhận của ngân hàng mở L/C thì L/C đó mới có hiệu lực, văn bản sửa đổi trở  
thành một bộ phận cấu thành không thể tách rời L/C cũ và nội dung cũ bị huỷ  
bỏ.  
* Xin giấy phép xuất khẩu hàng hoá:  
Việc xin giấy phép xuất khẩu trước đây là một công việc bắt buộc đối với  
tất cả các doanh nghiệp Việt Nam khi muốn xuất khẩu hàng hoá ra nước ngoài.  
Nhưng bắt đầu từ ngày 18/03/1998 theo quyết định số 55/1998/QĐ/TTg ban  
hành ngày 02/03/1998 của Thủ tướng Chính phủ thì tất cả các doanh nghiệp  
thuộc mọi thành phần kinh tế đều được quyền xuất khẩu hàng hoá phù hợp với  
nội dung đăng ký kinh doanh trong nước của doanh nghiệp, không cần phải xin  
giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu tại Bộ Thương mại nữa. Tuy nhiên quyết  
định này không áp dụng với một số mặt hàng đang quản lý theo cơ chế riêng, cụ  
thể là những mặt hàng gạo, chất nổ, sách báo, ngọc trai, đá quý, kim loại quý,  
tác phẩm nghệ thuật, đồ cổ.  
Đơn xin giấy phép xuất khẩu bao gồm:  
- Phiếu hạn ngạch (nếu hàng thuộc nhóm hàng Nhà nước quản lý bằng  
hạn ngạch).  
- Bản sao hợp đồng xuất khẩu.  
- L/C.  
- Một số giấy tờ liên quan khác.  
* Chuẩn bị hàng hoá xuất khẩu:  
Sau khi xin được giấy phép xuất khẩu, người xuất khẩu phải tiến hành  
chuẩn bị hàng hoá. Công việc gồm 3 công đoạn sau:  
- Thu gom tập trung thành lô hàng xuất khẩu: Ở đây, doanh nghiệp xuất  
khẩu tổ chức thu gom hàng bằng nhiều biện pháp khác nhau.  
- Đóng gói bao bì hàng xuất khẩu: Việc đóng gói bao bì phải căn cứ vào  
hợp đồng đã ký kết. Bao bì phải đảm bảo được phẩm chất của hàng hoá, dễ nhận  
biết hàng hoá, gây ấn tượng cho người mua.  
- Kẻ ký mã hiệu hàng xuất khẩu: Ký hiệu bằng số hay chữ, hình vẽ được  
ghi ở mặt ngoài bao bì để thông báo những thông tin cần thiết cho việc giao  
nhận, bỗc dỡ, bảo quản hàng hoá. Khi kẻ ký mã hiệu hàng hóa phải đảm bảo nội  
dung cần thông báo cho người nhận hàng, cho việc tổ chức vận chuyển và bảo  
quản hàng hoá, đồng thời phải đảm bảo yêu cầu sáng sủa, rõ ràng, dễ hiểu.  
* Thuê tàu:  
Trong quá trình thực hiện hợp đồng xuất khẩu hàng hoá, việc thuê tàu chở  
hàng dựa vào các căn cứ sau đây:  
- Hợp đồng xuất khẩu.  
- Đặc điểm hàng hoá xuất khẩu.  
- Điều kiện vận tải.  
Chẳng hạn, nếu điều kiện cơ sở giao hàng trong hợp đồng là CIF hoặc  
CRF thì người xuất khẩu có trách nhiệm phải thuê tàu. Nếu là FOB thì trách  
nhiệm thuê tàu lại thuộc về người nhập khẩu.  
Nếu hàng hoá xuất khẩu cần phải bảo quản tươi sống thì cần phải thuê tàu  
chuyên dụng có thiết bị đông lạnh. Hay cần chở hàng có khối lượng nhỏ lẻ  
người ta thường không thuê tàu chuyến mà thuê tàu chợ.  
Như vậy, trên thực tế người xuất khẩu có nhiệm vụ thuê tàu hay không  
còn tuỳ thuộc vào điều khoản đã thoả thuận trong hợp đồng đã ký kết.  
* Kiểm nghiệm hàng hoá.  
Kiểm tra lại chất lượng hàng hoá xuất khẩu là công việc cần thiết và quan  
trọng vì nhờ công tác này mà quyền lợi của khách hàng được bảo đảm, ngăn  
chặn kịp thời những hậu quả xấu phân định trách nhiệm rõ ràng giữa các khâu  
sản xuất cũng như tạo nguồn hàng, đảm bảo uy tín của nhà xuất khẩu cũng như  
nhà sản xuất trong quan hệ buôn bán.  
Công tác kiểm tra hàng xuất khẩu được tiến hành ngay sau khi hàng  
chuẩn bị đóng gói tại cơ sở sản xuất, còn hàng kiểm tra ở cửa khẩu là do khách  
hàng trực tiếp kiểm tra hoặc cơ quan có thẩm quyền kiểm tra, phụ thuộc vào sự  
thoả thuận của 2 bên.  
* Làm thủ tục hải quan.  
Đây là qui định bắt buộc đối với bất cứ loại hàng hoá nào, công tác này  
được tiến hành qua 3 bước:  
-Khai báo hải quan: Chủ hàng có trách nhiệm kê khai đầy đủ các chi tiết  
về hàng hoá một cách trung thực và chính xác lên tờ khai hải quan. Nội dung tờ  
khai hải quan gồm có: Loại hàng, tên hàng, số lượng, giá trị hàng hoá, nước  
nhập khẩu. Tờ khai hải quan được xuất trình cùng với một số giấy tờ khác như  
hợp đồng xuất khẩu, giấy phép, hoá đơn...  
- Xuất trình hàng hoá và nộp thuế: Sau khi khai báo chủ hàng cần sắp xếp  
hàng hóa một cách hợp lý để thuận tiện cho việc hải quan kiểm tra và tính thuế.  
-Thực hiện các quyết định của hải quan: Đây là khâu cuối cùng nhằm  
hoàn tất quá trình làm thủ tục hải quan cho hàng hoá xuất khẩu. Đơn vị xuất  
khẩu có nghĩa vụ thực hiện một cách nghiêm túc các quyết định của hải quan  
đối với lô hàng là cho phép hay không cho phép xuất khẩu...  
* Giao hàng lên tàu:  
Trong trường hợp nhà xuất khẩu chịu trách nhiệm chuyên chở thì công  
việc giao hàng lên tàu tiến hành theo trình tự sau:  
-Căn cứ vào chi tiết hàng xuất khẩu lập bảng đăng ký hàng chuyên chở.  
-Xuất trình bảng dăng ký hàng hoá chuyên chở cho người chuyên chở để  
lấy hồ sơ xếp hàng.  
-Bố trí chuyên chở hàng vào cảng và bốc xếp hàng lên tàu.  
-Lấy biên lai thuyền phó sau khi xếp hàng lên tàu. Đây là xác nhận của  
tàu vận chuyển về số hàng đã bốc xếp lên tàu, sau đó lấy biên lai thuyền phó  
đổi lấy vận đơn đường biển. Vận đơn này có giá trị về mặt pháp lý làm cơ sở  
giải quyết các tranh chấp có thể xảy ra về hàng hoá được chuyên chở giữa  
người thuê tàu và người vận tải.  
* Mua bảo hiểm:  
Việc chuyên chở hàng xuất khẩu thường phải trải qua một lộ trình rất dài,  
chứa đựng nhiều yếu tố bất thường của điều kiện tự nhiên đặc biệt là chuyên chở  
bằng đường biển, do đó thường gặp phải rủi ro và gây ra tổn thất. Để tránh được  
những thiệt hại không thể lường trước đó, hàng hoá xuất khẩu thường được mua  
bảo hiểm.  
Tuỳ vào thoả thuận trong hợp đồng mà nhà xuất khẩu hay nhà nhập khẩu  
có trách nhiệm mua bảo hiểm cho hàng hoá. Có hai loại hợp đồng bảo hiểm là  
hợp đồng bảo hiểm bao và hợp đồng bảo hiểm chuyến (Open Policy và Voyage  
Policy).  
Khi ký kết hợp đồng bảo hiểm cần phải nắm vững các điều kiện bảo hiểm:  
-Điều kiện bảo hiểm A: Bảo hiểm mọi rủi ro.  
-Điểu kiện bảo hiểm B: Bảo hiểm có bồi thường tổn thất riêng.  
-Điều kiện bảo hiểm C: Bảo hiểm không bồi thường tổn thất riêng.  
* Thanh toán hợp đồng:  
Đây là khâu cuối cùng nhưng cũng là khâu quan trọng phản ánh kết quả  
của hoạt động xuất khẩu. Hiệu quả kinh tế của khu vực kinh doanh xuất khẩu  
một phần nhờ vào chất lượng của việc thanh toán.  
Do đặc điểm buôn bán với người nước ngoài nên khâu thanh toán khá phức  
tạp bởi có nhiều phương thức thanh toán khác nhau như thanh toán bằng thư tín  
dụng, nhờ thu kèm chứng từ, chuyển tiền... Tuỳ theo mỗi giao dịch xuất khẩu cụ  
thể mà ta có thể lựa chọn phương thức nào có lợi cho mình nhất. Nhưng nói  
chung đều cần phải lưu ý đến các vấn đề sau:  
-Tỷ giá hối đoái.  
-Tiền tệ trong thanh toán.  
-Thời hạn thanh toán.  
-Phương thức và hình thức thanh toán.  
-Điều kiện đảm bảo hối đoái.  
* Giải quyết tranh chấp:  
Trong quá trình thực hiện hợp đồng có thể xảy ra những vấn đề không  
mong muốn làm ảnh hưởng đến kết quả thực hiện hợp đồng, hai bên sẽ căn cứ  
vào điều khoản “giải quyết tranh chấp, khiếu nại (nếu có)” trong hợp đồng để  
giải quyết. Thông thường hai bên sẽ đưa vụ việc ra giải quyết ở cơ quan trọng tài  
kinh tế và mọi phán quyết của trọng tài là chung thẩm và có giá trị bắt buộc đối  
với hai bên.  
4. Đánh giá hiệu quả thực hiện hợp đồng:  
Để đánh giá kết quả cụ thể của một hợp đồng xuất khẩu, các nhà xuất khẩu  
phải trải qua các khâu đánh giá, nghiệm thu kết quả của hợp đồng. Có thể nói  
hiệu quả là mối quan tâm hàng đầu của các đơn vị kinh tế và là một tiêu chuẩn  
quan trọng để đánh giá kết quả hoạt động xuất khẩu. Tuy rằng lợi nhuận là mục  
tiêu của doanh nghiệp xuất khẩu nhưng bên cạnh đó tiết kiệm lao động xã hội  
hay tăng năng suất lao động xã hội lại là tiêu chuẩn để đánh giá hiệu quả kinh tế  
của xuất khẩu.  
Hiệu quả kinh tế của một hoạt động xuất khẩu được đánh giá thông qua các  
chỉ tiêu chủ yếu như:  
-Chỉ tiêu lợi nhuận.  
-Chỉ tiêu hiệu quả kinh tế của xuất khẩu.  
-Chỉ tiêu doanh lợi xuất khẩu.  
-Chỉ tiêu doanh lợi xuất khẩu trong điều kiện tín dụng.  
-Chỉ tiêu điểm hoà vốn.  
-Chỉ tiêu thời gian hoàn vốn...  
III. NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU  
CỦA DOANH NGHIỆP.  
1. Các nhân tố khách quan:  
Mỗi một chủ thể hoạt động trong xã hội đều chịu sự chi phối nhất định của  
môi trường xung quanh. Đó là tổng hợp tất cả các yếu tố có tác động trực tiếp  
hoặc gián tiếp qua lại lẫn nhau. Chính những nhân tố này sẽ quy định xu hướng  
và trạng thái hành động của chủ thể. Trong kinh doanh thương mại quốc tế các  
doanh nghiệp xuất khẩu phải chịu sự chi phối của các nhân tố bên trong lẫn nhân  
tố bên ngoài nước. Các nhân tố này thường xuyên biến đổi làm cho hoạt động  
xuất khẩu càng trở nên phức tạp hơn. Chính vì thế, việc các doanh nghiệp kinh  
doanh xuất khẩu phải theo dõi, nắm bắt và phân tích thường xuyên ảnh hưởng  
của từng nhân tố đối với việc kinh doanh của mình là việc làm thiết thực không  
thể phủ nhận được.  
Các yếu tố thuộc môi trường kinh doanh là các yếu tố khách quan mà  
doanh nghiệp không thể kiểm soát được. Nghiên cứu các yếu tố này không  
nhằm để điều khiển nó theo ý muốn của doanh nghiệp mà nhằm tạo ra khả năng  
thích ứng một cách tốt nhất với xu hướng vận động của nó.  
Môi trường kinh doanh tác động liên tục đến hoạt động của doanh nghiệp  
theo những xu hướng khác nhau, vừa tạo ra cơ hội vừa hạn chế khả năng thực  
hiện mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp. Ảnh hưởng của môi trường kinh  
doanh có thể ở các tầng (thứ bậc) khác nhau vĩ mô/vi môi; mạnh/yếu; trực  
tiếp/gián tiếp... Nhưng về mặt nguyên tắc, cần phản ảnh được sự tác động của nó  
trong chiến lược phát triển kinh doanh của doanh nghiệp.  
Để nghiên cứu và đưa được tác động của môi trường kinh doanh vào chiến  
lược, có thể phân tích môi trường kinh doanh bao quanh doanh nghiệp qua các  
môi trường thành phần. Có thể kể đến một số môi trường chủ yếu như:  
1.1. Môi trường văn hoá và xã hội:  
Yếu tố văn hoá - xã hội luôn bao quanh doanh nghiệp và khách hàng và có  
ảnh hưởng lớn đến sự hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Có thể nghiên  
cứu các yếu tố này từ những giác độ khác nhau tuỳ theo mục tiêu nghiên cứu.  
Trong trường hợp này, chúng ta đặc biệt quan tâm đến sự ảnh hưởng của các yếu  
tố này trong việc hình thành và đặc điểm thị trường tiêu thụ của doanh nghiệp.  
Các thị trường luôn bao gồm con người thực với số tiền mà họ sử dụng  
trong việc thoả mãn các nhu cầu của họ. Một cách đơn giản có thể hiểu: thị  
trường = khách hàng + túi tiền của họ. Các thông tin về môi trường này cho  
phép doanh nghiệp có thể hiểu biết ở những mức độ khác nhau (từ khái quát đến  
cụ thể) về đối tượng phục vụ của mình. Qua đó, có thể đưa ra một cách chính  
xác sản phẩm và cách thức phục vụ khách hàng.  
Tiêu thức thường được nghiên cứu khi phân tích môi trường văn hoá - xã  
hội và ảnh hưởng của nó đến kinh doanh:  
- Dân số: (Quy mô của nhu cầu và tính đa dạng của nhu cầu)  
Số người hiện trên thị trường. Tiêu thức này ảnh hưởng đến dung lượng thị  
trường có thể đạt đến. Thông thường, dân số càng lớn thì quy mô thị trường  
càng lớn, nhu cầu về nhóm sản phẩm (sản phẩm) càng lớn, khối lượng tiêu thụ  
một sọ nào đó càng lớn, khả năng đảm bảo hiệu quả kinh doanh càng cao, cơ hội  
thương mại lớn... Tóm lại: Có nhiều cơ hội hấp dẫn hơn cho doanh nghiệp trong  
hoạt động thương mại và ngược lại.  
- Xu hướng vận động của dân số: (Dạng của nhu cầu và sản phẩm đáp  
ứng).  
Tỷ lệ sinh/tử, độ tuổi trung bình và các lớp người già trẻ. Tiêu thức này ảnh  
hưởng chủ yếu đến nhu cầu và việc hình thành các dòng sản phẩm thoả mãn nó  
trên thị trường, các yêu cầu về cách thức đáp ứng của doanh nghiệp như lựa  
chọn sản phẩm đáp ứng, hoạt động xúc tiến...  
- Hộ gia đình và xu hướng vận động: (Chất lượng và quy cách sản phẩm  
khi thoả mãm nhu cầu của cả gia đình)  
Độ lớn của một gia đình (bao gồm nhiều người trong gia đình). Có ảnh  
hưởng đến số lượng, quy acchs sản phẩm cụ thể... khi sản phẩm đó đáp ứng cho  
nhu cầu chung của cả gia đình. Đặc biệt có ý nghĩa khi phân tích trong mối liên  
hệ với thu nhập của người tiêu thụ.  
-Sự dịch chuyển dân cư và xu hướng vận động:  
Sự hình thành hay suy giảm mức độ tập trung dân cư (người tiêu thụ) ở một  
khu vực địa lý hẹp. Có ảnh hưởng lớn đến sự xuất hiện cơ hội mới hoặc suy tàn  
cơ hội hiện tại của doanh nghiệp.  
-Thu nhập và phân bổ thu nhập của người tiêu thụ: (Yêu cầu về sự thoả  
mãu nhu cầu theo khả năng tài chính).  
Lượng tiền mà người tiêu thụ có thể sử dụng để thoả mãn nhu cầu cá nhân  
của họ. Trong điều kiện nguồn lực có hạn, số lượng tiền (thu nhập) sẽ được  
trang trải cho các nhu cầu theo những tỷ lệ khác nhau và mức độ ưu tiên khác  
nhau. Điều này ảnh hưởng đến sự lựa chọn loại sản phẩm và chất lượng cần đáp  
ứng của sản phẩm, hình thành nên khái niệm về chất lượng sản phẩm theo cách  
đánh giá của người tiêu thụ: Sản phẩm vừa đủ. Doanh nghiệp có nhiều cơ hội để  
lựa chọn sản phẩm thoả mãn khác hàng theo mức độ yêu cầu khác nhau về chất  
lượng, chủng loại (thay thế) và dịch vụ.  
-Nghề nghiệp, tầng lớp xã hội: (Yêu cầu về sự thoả mãn nhu cầu theo địa vị  
xã hội).  
Vị trí của người tiêu thụ trong xã hội. Có ảnh hưởng lớn đến quan điểm và  
cách thức ứng xử trên thị trường. Các yêu cầu về sản phẩm và phục vụ tương  
ứng với quan điểm thoả mãn nhu cầu được hình thành theo nhóm.  
-Dân tộc, chủng tộc, sắc tộc, tôn giáo, nền văn hoá. (Sự đa dạng của nhu  
cầu và cách thức thoả mãn).  
Bản sắc, đặc điểm văn hoá - xã hội của từng nhóm khách hàng (lớn) phản  
ảnh quan điểm và cách thức sử dụng sản phẩm. Vừa yêu cầu đáp ứng tính riêng  
biệt về nhu cầu vừa tạo cơ hội đa dạng hoá khả năng đáp ứng của doanh nghiệp  
cho nhu cầu. Đòi hỏi phân đoạn thị trường và có chiến lược marketing tương  
thích để nâng cao khả năng cạnh tranh.  
1.2. Môi trường chính trị - luật pháp:  
Các yếu tố thuộc lĩnh vực chính trị và luật pháp chi phối mạnh mẽ sự hình  
thành cơ hội thương mại và khả năng thực hiện mục tiêu của bất kỳ doanh  
nghiệp nào. Sự ổn định của môi trường chính trị đã được xác định là một trong  
những điều kiện tiền đề quan trọng cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.  
Sự thay đổi điều kiện chính trị có thể ảnh hưởng có lợi cho nhóm doanh nghiệp  
này, kìm hãm sự phát triển của doanh nghiệp khác hoặc ngược lại. Hệ thống  
pháp luật hoàn thiện, không thiên vị là một trong những điều kiện tiền đề ngoài  
kinh tế của doanh nghiệp. Mức độ hoàn thiện, sự thay đổi và thực thi pháp luật  
trong nền kinh tế có ảnh hưởng lớn đến việc hoạch định và tổ chức thực hiện  
chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp.  
Các yếu tố cơ bản thuộc môi trường thành phần này thường được lưu ý là:  
-Quan điểm, mục tiêu định hướng phát triển xã hội và nền kinh tế của  
Đảng cầm quyền.  
-Chương trình, kế hoạch triển khai thực hiện các quan điểm, mục tiêu của  
Chính phủ và khả năng điều hành của Chính phủ.  
-Mức ổn định chính trị - xã hội.  

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 83 trang yennguyen 05/04/2025 170
Bạn đang xem 30 trang mẫu của tài liệu "Đồ án Quản trị danh mục sản phẩm của Tổng công ty chăn nuôi Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfdo_an_quan_tri_danh_muc_san_pham_cua_tong_cong_ty_chan_nuoi.pdf