Tiểu luận Các yếu tố nhiệt độ, độ ẩm, thành phần khí quyển ảnh hưởng đến các nguyên nhân gây hư hỏng và giảm chất lượng nguyên liệu - sản phẩm thực phẩm
TRƯỜNG …………………  
					KHOA………………………  
					----------  
					TIỂU LUẬN  
					Đề tài:  
					Các yếu tố nhiệt độ, độ ẩm, thành phần khí quyển  
					ảnh hưởng đến các nguyên nhân gây hư hỏng và  
					giảm chất lượng nguyên liệu – sản phẩm thực phẩm.  
					1
				MỞ ĐẦU  
					Khi lưu trữ sản phẩm thực phẩm nói chung sau quá trình thu hái và giết mổ ở  
					điều kiện môi trường khí quyển bình thường, chất lượng của chúng sẽ giảm dần  
					và dẫn đến hư hỏng hoàn toàn. Có 2 nguyên nhân cơ bản dẫn đến giảm chất  
					lượng và hư hỏng sản phẩm thực phẩm: đó là do hoạt động sinh lý, sinh hóa của  
					nguyên liệu sống và do hoạt động của vi sinh vật. Rất nhiều trường hợp, cho dù  
					nguyên liệu đã được hạn chế quá trình sinh lý, sinh hóa của nguyên liệu sống  
					đến mức tốt nhất, nhưng khi vi sinh vật có điều kiện hoạt động tốt thì chúng sẽ  
					gây bệnh dẫn đến hư hỏng. Vì vậy, để kéo dài thời hạn bảo quản của nguyên liệu  
					thực phẩm, chúng ta phải tuân thủ hai nguyên tắc cơ bản đó là: kìm hãm hoạt  
					động sống và ngăn ngừa, loại bỏ hoạt động của vi sinh vật. Để làm được điều đó  
					chúng ta phải tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến các quá trình đó, cụ thể là các  
					yếu tố nhiệt độ, độ ẩm, thành phần không khí ảnh hưởng đến hoạt động sống của  
					nguyên liệu thực phẩm và hoạt động sống của vi sinh vật. Vì vậy muốn tăng  
					hiệu quả quá trình bảo quản, kéo dài thời gian bảo quản chúng ta phải tìm hiểu  
					về ảnh hưởng của các thông số này lên quá trình bảo quản và tìm ra điểm tối ưu  
					cho quá trình bảo quản.  
					I.  
					NỘI DUNG  
					Rau quả tươi, cá, thịt gia súc sống là những sản phẩm thực phẩm phổ biến  
					chịu ảnh hưởng lớn bởi các yếu tố nhiệt độ, độ ẩm, thành phần khí quyển và đó  
					cũng là những nguyên nhân thúc đẩy những biến đổi hoá sinh gây hư hỏng,  
					giảm chất lượng sản phẩm thực phẩm.  
					Có hai nguyên nhân chính dẫn đến hư hỏng và giảm chất lượng nguyên liệu –  
					sản phẩm thực phẩm.  
					3
					 
				Nguyên nhân do hoạt động sinh lý, sinh hóa của nguyên liệu sống.  
					Rau quả  
					Những quá trình biến đổi sinh hoá, sinh lý, vật lý, và những quá trình  
					phân giải hoá học khác là những yếu tố quan trọng dẫn tới hư hỏng nguyên liệu  
					rau quả. Trong thời gian bảo quản, hầu hết các thành phần hoá học của rau quả  
					đều bị biến đổi do tham gia hô hấp hoặc do hoạt động của enzym.  
					Khi lưu trữ rau quả tươi sau thu hái trong điều kiện môi trường khí quyển  
					bình thường, chất lượng của chúng sẽ giảm dần và tiến tới hư hỏng hoàn toàn do  
					thối rữa. Thời gian từ khi thu hái đến khi rau quả bị hư hỏng dài hay ngắn phụ  
					thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau như: giống, loại rau quả, thời gian thu hái,  
					điều kiện môi trường…Nguyên nhân trực tiếp cơ bản dẫn đến sự hư hỏng thối  
					rữa rau quả, đó là hiện tượng chín và hiện tượng nhiễm bệnh.  
					Chín là một trong những giai đoạn phát triển sinh lý bình thường trong  
					chu kỳ sinh học của một cơ thể sống. Đó là: sinh ra – lớn lên – già – chết. Rau  
					quả tươi sau thu hái vẫn tiếp tục quá trình sống như còn trên cây mẹ, tức là vẫn  
					tiếp tục biến đổi theo chiều hướng tất yếu của chu kỳ sinh học nói trên.  
					Quá trình chín của rau quả phụ thuộc vào cường độ hô hấp. Như là một  
					dấu hiệu đặc trưng cho hoạt động sống của tế bào, quá trình hô hấp của rau quả  
					sau thu hái xảy ra với cường độ càng cao thì hiện tượng chín xảy ra càng nhanh  
					chóng. Điều đó đồng nghĩa với thời hạn bảo quản của rau quả càng bị rút ngắn.  
					Thời hạn bảo quản rau quả tươi phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau, trong đó  
					đáng kể nhất là: nhiệt độ, độ ẩm, thành phần khí quyển.  
					Nhiệt độ:  
					Là yếu tố rất quan trọng có tính chất quyết định thời hạn bảo quản rau quả  
					tươi. Sự thay đổi nhiệt độ trước hết ảnh hưởng đến cường độ hô hấp. Nhiệt độ  
					càng cao tốc độ các phản ứng sinh hóa xảy ra trong rau quả cũng càng cao được  
					thể hiện qua cường đọ hô hấp. Tuy nhiên sự phụ thuộc tỷ lệ thuận đó chỉ đến  
					giới hạn nhất định, cụ thể khi tăng nhiệt độ từ 250C trở lên thì cường độ hô hấp  
					giảm. Như vậy, muốn cường độ hô hấp giảm, tức là muốn ức chế hoạt động  
					4
					 
					 
				sống của rau quả thì cần bảo quản rau quả trong môi trường có nhiệt độ càng  
					thấp càng tốt.  
					Bảng 1. Ảnh hưởng của nhiệt độ và nồng độ O đến cường độ hô hấp của một số  
					2
					loại rau  
					Cường độ hô hấp (mg CO2/kg.h  
					Loại rau  
					Trong không khí thường  
					100C 200C  
					127  
					Trong môi trường O2 3%  
					00C 100C 200C  
					quả  
					00C  
					Măng tây  
					Củ cải  
					28  
					4
					63  
					11  
					30  
					19  
					45  
					13  
					20  
					4
					25  
					6
					45  
					7
					75  
					10  
					30  
					25  
					60  
					10  
					17  
					4
					19  
					40  
					33  
					126  
					15  
					35  
					6
					Cải bắp  
					Cà rổt  
					11  
					13  
					20  
					6
					8
					15  
					11  
					45  
					8
					7
					Súp lơ  
					14  
					5
					Dưa chuột  
					Ớt xanh  
					Khoai tây  
					Cà chua  
					Ngô ngọt  
					8
					9
					14  
					3
					6
					5
					6
					15  
					90  
					30  
					210  
					4
					6
					12  
					31  
					27  
					60  
					120  
					Nhiệt độ là yếu tố vật lý môi trường quan trọng nhất có ảnh hưởng đến  
					chất lượng rau quả sau thu hoạch. Nhiệt độ môi trường quá cao hay quá thấp đều  
					có thể gây ra các rối loạn sinh lý cho rau quả bảo quản. Có thể chia nhiệt độ  
					thành 3 khoảng có ảnh hưởng khác nhau đến rau quả:  
					Khoảng nhiệt độ tối ưu  
					Thông thường quá trình chín của quả và sinh trưởng của rau có thể diễn ra  
					thuận lợi trong khoảng nhiệt độ từ 10-30oC. Nhiệt độ thích hợp nhất cho sự chín  
					của quả là từ 20-23oC. Trong khoảng nhiệt độ tối ưu, rau quả rất nhạy cảm với  
					sự tăng lên của một lượng nhiệt nhỏ  
					Khoảng nhiệt độ thấp  
					5
				Rau quả có thể đặt trong điều kiện lạnh hơn khả năng chịu nhiệt do một số  
					nguyên nhân: vận chuyển rau quả qua vùng khí hậu lạnh, đặt nhầm nhiệt độ kho  
					bảo quản hoặc do rau quả tiếp xúc trực tiếp với tác nhân làm lạnh (nước đá).  
					Tổn thương lạnh được biểu hiện ở các triệu chứng như hóa nâu vỏ hoặc ruột  
					quả, có vết lõm trên bề mặt rau quả, sự mất nước của rau quả, quá trình chín của  
					rau quả không bình thường hoặc không chín được. Ngưỡng nhiệt độ gây ra tổn  
					thương lạnh trên quả roi là 15oC, chuối là 12-14oC, xoài là 12-13oC, cam quýt 4-  
					8oC, vải 2oC. Hiện tượng đóng băng dịch bào thường xảy ra khi nhiệt độ môi  
					trường xuống dưới 0oC. Tùy vào hàm lượng các chất hòa tan trong nguyên sinh  
					chất tế bào rau quả mà ngưỡng tổn thương do đóng băng khác nhau ở các loại  
					rau quả. Ví dụ súp lơ xanh có thể bị đóng băng ở 0oC, nhưng nho có hàm lượng  
					đường cao không bị đóng băng nếu nhiệt độ >-2oC. Hiện tượng đóng băng làm  
					mất nước và hình thành các tinh thể băng, gây “hạn” ngay trong tế bào, làm hạn  
					chế khả năng thẩm thấu. Hơn nữa, việc tạo thành các tinh thể đá sẽ phá vỡ cấu  
					trúc tế bào. Tổn thương băng giá làm cho các hoạt động sinh lý của rau quả  
					không trở lại được bình thường, làm cho rau quả bị nhũn mềm và úng nước.  
					Ảnh hưởng của nhiệt độ cao  
					Tổn thương do nhiệt độ cao thường xảy ra khi rau quả bị phơi nắng lâu,  
					nhiệt độ bảo quản quá cao, hay do quá trình xử lý nhiệt độ cao (nước nóng, hơi  
					hoặc khí nóng). Thông thường trong rau quả, hoạt lực của các enzym giảm nếu  
					nhiệt độ cao trên 30oC, nhiều enzym trở nên mất hoạt tính ở nhiệt độ 35oC, phần  
					lớn bị mất hoạt tính ở nhiệt độ trên 40oC.  
					Nếu quá trình chín của quả hô hấp đột biến diễn ra ở nhiệt độ trên 30oC  
					thì ruột quả chín được nhưng vỏ quả sẽ không có được màu sắc đặc trưng. Ví  
					dụ: ruột chuối đã mềm nhũn mà vỏ quả vẫn còn mầu xanh; quá trình tổng hợp  
					lycopene tạo màu đỏ cà chua bị ức chế. Nhiệt độ trên 35oC thì các hoạt động  
					trao đổi chất có thể xảy ra không bình thường, cấu trúc tế bào có thể bị tổn  
					6
				thương, rau quả bị hỏng nhanh chóng. Ngoài ra, nhiệt độ cao còn làm tăng  
					cường hoạt động gây hại của vi sinh vật.  
					Sự giảm hoạt động của các quá trình sinh lý – sinh hóa trong rau quả cũng  
					như trong vi sinh vật khi hạ thấp nhiệt độ được giải thích: một mặt bằng việc  
					giảm tốc độ các phản ứng hóa học, mặt khác là do nguyên sinh chất của tế bào  
					co lại, làm giảm tính thẩm thấu của màng tế bào và từ đó giảm khả năng trao đổi  
					chất. Tuy nhiên nhiệt độ quá thấp không hẳn đã kéo dài được thời hạn bảo quản  
					vì 2 lý do:  
					Lý do thứ nhất, nếu nhiệt độ bảo quản thấp hơn nhiệt độ đóng băng của  
					dịch bào thì rau quả sẽ bị đóng băng, tế bào thực vật sẽ bị phá hủy và quá trình  
					sống bị đình chỉ. Khi đó rau quả sẽ tồn tại ở dạng sản phẩm lạnh đông chứ  
					không phải dạng tươi như mong muốn. Nhiệt độ đóng băng của một số loại quả  
					được ghi ở bảng 2.  
					Bảng 2: Nhiệt độ đóng băng của một số loại rau quả  
					Nhiệt độ đóng  
					băng, oC  
					-1.4 đến -2.8  
					-2.0 đến -2.7  
					-1.0 đến -1.4  
					-2.0  
					Nhiệt độ đóng  
					Loại rau quả  
					Loại rau quả  
					băng, oC  
					Táo (tây)  
					Cà rốt  
					-1.3  
					Lê  
					Khoai tây  
					Bắp cải  
					-1.7  
					Đào  
					-1.1  
					Mận  
					Mơ  
					Hành tây  
					Dưa chuột  
					Cà chua chín  
					Ớt xanh  
					-1.0  
					-2.0  
					-0.5  
					Chanh  
					Cam  
					Quýt  
					Chuối  
					-0.2  
					-1.1  
					-2.0 đến -2.5  
					-2.2  
					-1.0  
					Cà tím  
					-1.0  
					-1.1  
					Dưa bở  
					-1.5 đến -2.0  
					Lý do thứ hai, nhiệt độ thấp có thể dẫn đến rối loạn một số quá trình sinh  
					lý sinh hóa của rau quả. Khi bảo quản chuối xanh ở nhiệt độ dưới 120C, chuối sẽ  
					không chín khi rấm. Hoặc bảo quản chuối chín ở nhiệt độ thấp hơn 110C, chuối  
					sẽ bị thâm làm giảm giá trị cảm quan của sản phẩm. Có thể nói mỗi loại rau quả  
					7
				có một giới hạn nhiệt độ bảo quản, thấp hơn giới hạn đó hiệu quả bảo quản sẽ  
					không tốt.  
					Do vậy, mỗi một loại rau quả thích hợp với một nhiệt độ bảo quản nhất  
					định nào đó. Khi bảo quản ở nhiệt độ cao hơn hoặc thấp hơn đều có ảnh hưởng  
					xấu đến thời hạn bảo quản và chất lượng của rau quả. Nhiệt độ tốt nhất cho việc  
					bảo quản một loại rau quả nào đó gọi là nhiệt độ bảo quản tối ưu.  
					Nhiệt độ bảo quản tối ưu cho một loại rau quả nào đó không cố định mà  
					phụ thuộc vào một vài yếu tố, nhất là yếu tố độ chín. Độ chín càng cao nhiệt độ  
					bảo quản càng phải thấp. Ví dụ nhiệt độ tối ưu cho bảo quản cam, chanh, quýt  
					khi đã chín là 1-20C, khi còn xanh là 4-60C.  
					Người ta chứng minh được rằng, sự biến động nhiệt độ gây ảnh hưởng lớn  
					đến thời hạn bảo quản. Nếu bảo quản rau quả ở nhiệt độ thấp nhưng độ dao động  
					lớn, không ổn định thì tác hại còn lớn hơn là bảo quản ở nhiệt độ cao hơn nhưng  
					ổn định. Vì vậy, trong thực tế cho phép nhiệt độ dao động trong khoảng ±0,50C.  
					Độ ẩm tương đối của không khí  
					Độ ẩm tương đối của không khí trong môi trường bảo quản quyết định tốc  
					độ bay hơi nước của rau quả. Độ ẩm môi trường càng thấp, cường độ hô hấp và  
					tốc độ bay hơi nước càng cao, làm cho khối lượng tự nhiên của rau quả giảm  
					đáng kể, thậm chí rau quả có thể bị héo. Sự mất nước quá cao làm cho hoạt động  
					của tế bào bị rối loạn, làm giảm khả năng tự đề kháng bệnh lý và từ đó rau quả  
					sẽ chóng hỏng. Mặt lợi của độ ẩm tương đối thấp là ở chỗ tạo môi trường không  
					thuận lợi cho vi sinh vật phát triển, do đó hạn chế đáng kể sự xuất hiện các loại  
					bệnh. Vì vậy nếu khắc phục được sự phụ thuộc giữa tốc độ bay hơi nước và độ  
					ẩm thì nên hướng tới việc bảo quản rau quả trong môi trường có độ ẩm càng  
					thấp càng tốt. Ngược lại, khi độ ẩm tương đối cao thì tốc độ bay hơi nước và  
					cường độ hô hấp giảm nhưng lại tạo môi trường phát triển tốt các loại sinh vật.  
					Hơn nữa nước có thể ngưng tụ trên bề mặt rau quả dẫn tới việc rối loạn hô hấp.  
					Vì vậy, để bảo quản một loại nguyên liệu nào đó ta cũng cần chọn độ ẩm thích  
					8
					 
				hợp để tránh ảnh hưởng xấu đến chất lượng sản phẩm, tức là phải chọn độ ẩm  
					tối ưu cho loại nguyên liệu đó.  
					Độ ẩm tối ưu của từng loại quả cũng rất khác nhau, nó phụ thuộc vào khả  
					năng chống bay hơi nước và khả năng tự bảo quản của mỗi loại. Với những loại  
					rau quả mà phần biểu bì được cấu tạo bởi lớp màng chắc đủ ngăn cản nước bay  
					hơi, thì có thể bảo quản ở môi trường có độ ẩm thấp. Ví dụ: hành có thể bảo  
					quản ở φ = 70 – 75%, vì có lớp vỏ khô bao bọc không cho nước bốc hơi tự do.  
					Còn các loại rau quả khác không có khả năng giữ nước thì được bảo quản ở điều  
					kiện độ ẩm cao hơn φ = 85 – 95%. Cũng như nhiệt độ, sự dao động độ ẩm tối ưu  
					cũng ảnh hưởng xấu đến chất lương bảo quản. Thực tế cho phép độ ẩm dao động  
					trong khoảng ± 2%.  
					Để khắc phục ảnh hưởng của độ ẩm đến tốc độ bay hơi nước, người ta có  
					thể sử dụng các loại bao bì màng mỏng như túi PE, PVC… vừa để chứa đựng  
					vừa để hạn chế bay hơi nước khi bảo quản trong môi trường có độ ẩm thấp. Rau  
					quả cũng được gói trong giấy mềm, xốp vừa chống xây xát vừa tạo ra một phạm  
					vi không gian có độ ẩm cao bao quanh quả, làm giảm chênh lệch ẩm giữa  
					nguyên liệu và môi trường.  
					Thành phần khí quyển:  
					Mỗi loại khí có trong môi trường bảo quản đều có tác dụng riêng đến thời  
					hạn bảo quản rau quả tươi: Thành phần chất khí trong môi trường bảo quản có  
					thể ảnh hưởng đến tuổi thọ của sản phẩm, đặc biệt các sản phẩm dễ hỏng như  
					rau quả. Sự thay đổi nồng độ các chất khí hô hấp – O và CO – có thể kéo dài  
					2
					2
					tuổi thọ của sản phẩm.  
					Hàm lượng O và CO trong khí quyển bảo quản ảnh hưởng đến cường độ  
					2
					2
					và phương thức hô hấp của rau quả. Nếu lượng O giảm xuống 5% hoặc CO  
					2
					2
					tăng lên đến 3%, có thể tạo ra một môi trường khí hậu cải biến tốt để bảo quản  
					rau quả thông qua việc kìm hãm các hoạt động hô hấp, kéo dài tuổi thọ của rau  
					quả. Ví dụ: chuối bảo quản ở khí quyển 5% CO , 3% O , 92% N , không có mặt  
					2
					2
					2
					9
					 
				C H sẽ giảm cường độ hô hấp 4 lần. Tuy nhiên, cần lưu ý khả năng hô hấp yếm  
					2
					4
					khí làm cho rau quả bị mất mùi thơm đặc trưng. Bên cạnh đó, tác động của hàm  
					lượng chất khí lên quá trình hô hấp còn phụ thuộc vào nhiệt độ.  
					Ngoài ra, sự thay đổi thành phần O và CO còn ảnh hưởng đến sự phát triển gây  
					2
					2
					hại của sinh vật, đặc biệt là vi sinh vật và côn trùng.  
					Trong khí quyển bảo quản còn nhiều chất khí khác do rau quả sinh ra hoặc  
					từ các nguồn khác cũng có thể tích tụ trong môi trường bảo quản. Quan trọng  
					nhất trong các loại chất khí này là ethylene. Như ta đã biết, quá trình chín bắt  
					đầu cùng với sự sinh tổng hợp ethylene của quả. Sự sản sinh một lượng ethylen  
					nhỏ (0,005-0,1 μL/L) cũng kích thích tăng cường hô hấp của quả. Ngoài nguồn  
					ethylen nội sinh, ethylen ngoại sinh sinh ra do sự vận hành thiết bị bảo quản, vận  
					chuyển hoặc từ các quả khác loại được bảo quản chung trong khí quyển bảo  
					quản, cũng có thể làm khởi động quá trình chín. Nếu tăng lên quá ngưỡng tới  
					hạn sẽ thúc đẩy nhanh chóng sự chín hoặc già hóa của các loại rau quả.  
					CO (oxit carbon) có thể do các thiết bị bảo quản sinh ra. CO có tính độc  
					với hệ hô hấp của người, nhưng cũng có tác dụng ôxi hóa ethylene và hạn chế sự  
					phát triển vi sinh vật và côn trùng hại. Ngoài ra acetaldehyde và ethanol cũng có  
					tác dụng hạn chế sự phát triển của vi sinh vật gây hại.  
					- Khí oxy (O2) như là một thành phần chủ yếu tham gia quá trình hô hấp  
					hiếu khí. Hàm lượng khí oxy càng cao thì cường độ hô hấp càng tăng và ngược  
					lại. Khi hàm lượng oxy giảm xuống dưới mức cho phép thì hô hấp hiếu khí  
					ngừng, thay vào đó là hô hấp yếm khí tạo ra rượu có thể đầu độc tế bào sống.  
					Nói cách khác, khi quá trình hô hấp bị ngừng trệ thì có nghĩa là quá trình sống  
					của tế bào bị ức chế và cuối cùng bị đình chỉ hoàn toàn. Như vậy để duy trì sự  
					sống ở mức tối thiểu đủ để kéo dài thời hạn bảo quản rau quả, thì cần phải đảm  
					bảo hàm lượng oxy cần thiết tối thiểu để duy trì quá trình hô hấp hiếu khí.  
					- Ảnh hưởng của CO2 đến thời hạn bảo quản rau quả có chiều hướng thuận,  
					tức là hàm lượng CO2 càng tăng thì thời hạn bảo quản cũng có thể tăng. Khí CO2  
					chủ yếu tác dụng lên quá trình hô hấp của rau quả cũng như vi sinh vật. Đối với  
					10  
				rau quả tươi CO2 ức chế cường độ hô hấp, từ đó hạn chế được các quá trình  
					phân giải hóa học – sinh học. Còn đối với vi sinh vật, khí CO2 làm chậm quá  
					trình hoạt động, phát triển của chúng. Vì vậy có thể tránh được phần nào nguy  
					cơ gây bệnh của vi sinh vật. Trong khí quyển khí CO2 chỉ chiếm khoảng 0,03%,  
					nhưng sau một thời gian bảo quản hàm lượng đó tăng lên đáng kể do hô hấp.  
					Nghiên cứu cho thấy tác dụng bảo quản không chỉ phụ thuộc vào nồng độ CO2  
					mà còn phụ thuộc vào đặc tính sinh học của từng loại rau quả.  
					Đối với một số loại rau quả khi tăng nồng độ khí CO2 lên quá 10%, quá  
					trình hô hấp hiếu khí bị ức chế và xuất hiện hô hấp yếm khí. Những loại rau quả  
					này không chịu được nồng độ khí CO2 quá 10%, chúng thuộc nhóm không bền  
					CO2. Ngược lại có nhóm rau quả có thể chịu được nồng độ CO2 trên 10% gọi là  
					nhóm bền CO2. Thời hạn bảo quản rau quả tươi bị ảnh hưởng chủ yếu bởi những  
					yếu tố đã nêu trên. Ngoài ra còn có các yếu tố khác như: ánh sáng, kỹ thuật  
					chăm bón, thông gió… nói chung là những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến  
					cường độ hô hấp và độ bền của rau quả tươi.  
					Các sản phẩm động vật: thịt, cá, trứng, sữa…  
					a, Những biến đổi của thịt sau khi giết mổ.  
					Sau khi giết, gia súc mất khả năng kháng khuẩn tự nhiên. Quá trình tuần  
					hoàn máu bị ngừng hẳn, không có O2 cung cấp cho quá trình hô hấp hiếu khí  
					nên quá trình này cũng ngừng. Thay vào đó là quá trình hô hấp yếm khí chuyển  
					hóa glycogen thành glucoza rồi từ đó chuyển thành axit loretic và giải phóng  
					năng lượng. Do có sự tạo thành axit nên pH của thịt chuyển từ mức bình thường  
					(pH= 7) đến giá trị thấp hơn (pH= 5,1-6,5).  
					Sau một thời gian kể từ lúc chết súc vật bắt đầu chuyển sang giai đoạn  
					CỨNG do lượng axit ATF trong mô cơ bị giảm.  
					Sự giảm axit ATF và pH là nguyên nhân giảm khả năng giữ nước của thịt.  
					Tốc độ giảm ATF và pH có thể chậm lại khi hạ nhiệt độ môi trường, và như vậy  
					có thể giữ được khả năng giữ nước của thịt, từ đó hạn chế được tốc độ phát triển  
					của vsv và giữ được màu tự nhiên của thịt.  
					11  
				Hiện tượng khác xảy ra trong thịt sau khi giết gia súc là sự phân hủy  
					glycogen. Dưới tác dụng của enzim Amilaza một phần glycogen chuyển thành  
					glucoza và hecxoza-1-6di photphat sau đó glucoza lại tạo thành axit lactic. Do  
					tác dụng của axit lactic, protit bị đông tụ và mất khả năng kết hợp với nước, các  
					cơ thịt trở nên mềm dần và có hương vị thơm, ăn dễ tiêu. Chế biến đồ hộp thịt  
					đang ở giai đoạn này rất tốt (đó là hiện tượng chín của thịt). Hiện tượng chín kéo  
					dài, thay đổi chủ yếu phụ thuộc vào nhiệt độ của môi trường xung quanh. Nhiệt  
					độ càng cao thì thời gian kết thúc quá trình chín càng ngắn, vì vậy trong sản xuất  
					thịt hộp cần phải có phương tiện bảo quản lạnh để kéo dài thời gian chín của  
					thịt. Trong quá trình chín không xảy ra các hiện tượng biến đổi do vi sinh vật vì  
					lúc đó thịt không có vi sinh vật. Các bộ phận chứa nhiều vi sinh vật như ruột,  
					nội tạng... đã được lấy ra ngay sau khi giết thịt.  
					Thịt đã chín, nếu có vi sinh vật ở ngoài xâm nhập vào thì các vi sinh vật  
					đó lại có môi trường thuận lợi để phát triển, làm cho thịt bị ôi thối. Khi thịt bị ôi  
					thối thì protit bị phân huỷ thành các chất độc (nên không dùng để chế biến đồ  
					hộp). Các dấu hiệu của thịt bị hỏng là thịt bị ướt, trên mặt bị nhầy, mềm nhũn,  
					màu thẫm dần thành màu xám hay màu xanh, có phản ứng kiềm vì có amoniac  
					thoát ra, mùi trở nên khó chịu. Thịt ở giai đoạn này không dùng để chế biến thực  
					phẩm.  
					Quá trình phân hủy glycogen (glicoliza) là không thuận nghịch xảy ra  
					trong điều kiện yếm khí. Sau khi xảy ra quá trình này pH của thịt giảm xuống  
					khoảng 5,5, bắt đầu tương ứng với điểm đẳng điện của protein và giảm khả năng  
					giữ nước của thịt.  
					Để hạn chế các quá trình tự phân hủy trong thịt, sau khi làm thịt cần phải  
					bảo quản ngay ở điều kiện lạnh càng nhanh càng tốt, t0 càng thấp càng tốt.  
					Bảng 2: Thời gian chín phụ thuộc vào nhiệt độ môi trường xung quanh  
					Nhiệt độ môi trường xung quanh, 0C  
					Thời gian chín  
					2-3  
					12-15ngày  
					12  
				12  
					20  
					29  
					5ngày  
					24h  
					4-5h  
					b, Những biến đổi của thịt cá  
					Các quá trình sống của cá và các động vật thuỷ sinh khác đều do các men  
					điều chỉnh. Chúng là động vật máu lạnh, tức là nhiệt độ của cơ thể thay đổi thích  
					ứng với nhiệt độ của môi trường nước. Các men trong cá hoạt động mạnh ở  
					nhiệt độ không cao, nên khi cá được đánh lên bờ làm cho nhiệt độ thân cá tăng  
					dẫn đến tăng hoạt động của các men và tạo điều kiện cho các VSV phá huỷ thịt  
					cá phát triển.  
					Khi một cơ thể chết đi, hệ điều tiết bình thường ngừng hoạt động theo chức năng  
					và ngừng luôn cả việc cung cấp oxy và việc sản sinh năng lượng. Các tế bào bắt  
					đầu một chuỗi quá trình mới đặc trưng bởi sự bẻ gãy glycogen và sự phân huỷ  
					các hợp chất giàu năng lượng  
					- Các enzyme trong cơ và hoạt tính của chúng  
					+ Các quá trình tự phân giải đầu tiên trong mô cơ cá xảy ra với các  
					cacbonhydrat và các nucleotide. TRong cơ thể sống, ATP được tạo ra nhờ phản  
					ứng andenozintriphotphatnaza (ADP) và creatin phosphate là chất dự trữ  
					phosphate giàu năng lượng trong các tế bào cơ  
					+ Các catepsin là các enzyme thuỷ phân và phần lớn chúng có trong các lyossom  
					(catepsin có hoạt động trong khoảng pH 2-7). Mặt khác, các catepsin đóng vai  
					trò làm chín (làm mềm thịt) cá ướp muối là loại sản phẩm có độ pH rất thấp và  
					nồng độ muối thấp do hoạt động của các enzyme bị ức chế mạnh ngay từ khi ở  
					nồng độ 5%  
					- Các enzyme tiêu hoá và hoạt tính của chúng  
					+ Các enzyme trong đường tiêu hoá đóng vai trò quan trọng trong quá trình tự  
					phân giải của cá nguyên con và chưa moi ruột  
					+ Các proteaza tiêu hoá quan trọng nhất là các peptidaza nội tạng ở dạng trypsin  
					và các enzym pepsin  
					13  
				* Hệ vi khuẩn trong cá sống  
					- VSV có mặt trên toàn bộ mặt ngoài (da và mang) và trong nội tạng của cá sống  
					và cá vừa đánh: Da 102 – 107 tb/cm2, mang 103 – 109/g, nội tạng 103 – 109/g. Các  
					VSV chủ yếu là VK hiếu khí hoặc kỵ khí ngẫu nhiên, chịu lạnh, gram âm thuộc  
					giống Pseudomonas, Acinetobacter, Vibrio, ngoài ra còn có cả các vi khuẩn bắt  
					màu gram dương như Mcrococcus, Bacillus, Cryneform  
					* Những biến đổi của các hệ VSV trong bảo quản và ươn hỏng  
					Sau giai đoạn ức chế ban đầu, các VK trong cá bước vào giai đoạn phát  
					triển theo cấp số nhân và trong điều kiện hiếu khí tổng số VK đạt giá trị 108 –  
					109/g hoặc trên 1 cm2 da khi đã có sự ươn hỏng. Trong điều kiện yếm khí với  
					nồng độ oxy thấp lượng VK sẽ thấp hơn, thường ở mức 106/g cá  
					* Sự xâm nhập của VK  
					- Trong cá sống khoẻ mạnh và cá tươi mới đánh, các cơ cá vô trùng thì sự nhiễm  
					VSV chỉ xảy ra trên bề mặt ngoài và trong cá. Trên thực tế VK xâm nhập vào  
					thịt quá đường các sợi collagen khi cá đưa lên nhiệt độ cao (>80C). Trong trường  
					hợp này các hợp chất có trọng lượng phân tử thấp bị công phá và các enzym của  
					vi khuẩn khuếch tán từ bề mặt vào mô cơ trong khi đó cơ chất trong cơ lại  
					khuếch tán trở ra  
					Hư hỏng, giảm chất lượng do hoạt động của vi sinh vật  
					Kết quả hoạt động của các vi sinh vật có thể làm cho các thành phần hóa  
					học, giá trị sinh học của nguyên liệu hay sản phẩm thực phẩm giảm đi đáng kể  
					dẫn tới giảm giá trị sử dụng của Thực phẩm. Có khi còn dẫn tới sự hư hỏng hoàn  
					toàn.  
					Sự hoạt động của vi sinh vật có thể dẫn đến 2 loại hư hỏng của sản phẩm  
					thực phẩm. Đó là: sự thối rữa và lên men do hoạt động của vsv gây thối rữa và  
					lên men; sự tích tụ chất độc hoặc sinh bệnh do vi sinh vật gây độc hoặc gây bệnh  
					sinh ra.  
					Vì vậy sự hư hỏng của sản phẩm TP có thể nhận biết bằng trực quan hay  
					chỉ có thể bằng phân tích.  
					14  
					 
				Để hạn chế hư hỏng sản phẩm TP một mặt cần giữ đúng quy trình vệ sinh  
					trong sản xuất chế biến bảo quản, mặt khác cần nghiên cứu phân loại các loại  
					vsv gây ra hư hỏng cho từng đối tượng TP cụ thể.  
					VSV và các dạng hư hỏng, giảm chất lượng trong rau quả  
					Sự có mặt của vi sinh vật trong rau quả không phải lúc nào cũng gây hư  
					hỏng. Khi trong rau quả có chứa chất kháng khuẩn tự nhiên (phitonxit), vi sinh  
					vật có thể bị ức chế không có khả năng gây bệnh. Thế nhưng sự tồn tại của  
					chúng vẫn là nguy cơ. Khi điều kiện thuận lợi chúng sẽ hoạt động. Tác động của  
					vi sinh vật còn phụ thuộc vào khả năng tự lành vết thương của các loại rau quả  
					sau thu hái. Ở một số loại rau quả, lớp vỏ bị xây xát có thể tự phát triển lấp kín  
					vết thương sau một thời gian nhất định trong một môi trường thuận lợi. Điều đó  
					rất có ý nghĩa trong việc ngăn chặn sự xâm nhập của vi sinh vật và do đó giảm  
					đáng kể khả năng hư hỏng do thối rữa.  
					Khả năng tự lành vết thương thể hiện ở mỗi loại rau quả mỗi khác, rõ nhất  
					là trên khoai tây, cà rốt… Khi để khoai tây vừa mới thu hoạch trong môi trường  
					thoáng khí có độ ẩm φ = 90 – 95%, nhiệt độ khoảng 18 – 200C, những vết  
					thương trên phần vỏ sẽ lành trở lại sau 3 giờ. Còn nếu nhiệt độ càng thấp thì thời  
					gian cần để hàn gắn các vết thương càng dài (sau 4 giờ ở nhiệt độ 100C và độ ẩm  
					thấp). Thời hạn bảo quản rau quả tươi nói riêng và thực phẩm nói chung là  
					khoảng thời gian dài nhất trong đó rau quả hay thực phẩm vẫn giữ được tính  
					chất đặc trưng của chúng. Trong khoảng thời gian này giá trị dinh dưỡng và chất  
					lượng cảm quan của rau quả hay thực phẩm biến đổi không đáng kể.  
					Phần lớn các loại rau quả đều chứa axit nên độ pH thường thấp hơn 5, ví  
					dụ trong cam chanh quýt bưởi pH = 2 ÷ 3, trong chuối pH = 5. Vì vậy sự hư  
					hỏng của hoa quả chủ yếu do hoạt động của nấm mốc, nấm men. Sauk hi thu hái  
					quá trình lên men, lên mốc có thể xảy ra sau một thời gian bảo quản dài hay  
					ngắn tùy thuộc vào cấu tạo, trạng thái của hoa quả và điều kiện bảo quản.  
					Ví dụ: các loại quả thuộc họ đậu (đậu tây + ta) có thể lên mốc sau 1 ngày  
					đêm bảo quản ở nhiệt độ thường, còn các loại quả khác có cấu trúc cứng, chắc  
					hơn có thể bảo quản lâu hơn.  
					15  
				Do có độ pH thấp và 1 số loại quả có chứa chất kháng khuẩn nên các loại  
					vi khuẩn không phải là nguyên nhân chính gây thối rữa cho hoa quả tươi. Tuy  
					nhiên có 1 số loại vi khuẩn lên men lactic và acetic có thể làm hỏng hoa quả.  
					Tốc độ lên men lên mốc – tốc độ hư hỏng – trên hoa quả phụ thuộc vào  
					nhiều yếu tố: độ nguyên vẹn của quả, nhiệt độ, độ ẩm môi trường, thành phần  
					không khí, …  
					Kết quả của sự lên men lên mốc là: làm cho quả mềm ra, có mùi lạ, …  
					mất trạng thái tự nhiên của sản phẩm và cuối cùng làm mất giá trị sử dụng cho  
					ăn tươi cũng như cho chế biến.  
					Khi quả bị bệnh các mô trong quả bị mềm và hình thành những nhóm sợi  
					màu vàng xám đến vàng nâu và cuối cùng chuyển sang màu nâu sẫm. Vỏ quả trở  
					nên cứng có màu từ nâu sẫm đến xanh đen. Bệnh lây lan toàn quả và từ quả này  
					sang quả khác. Có thể để lại ổ bệnh trên bao bì vận chuyển.  
					Rau xanh được sử dụng làm thức ăn gồm nhiều dạng khác nhau: dạng củ  
					(củ cải, …), dạng lá (rau cải, …), dạng quả (cà, mướp, …), dạng hoa, dạng  
					mầm, …  
					Thức ăn từ rau xanh cung cấp cho cơ thể chủ yếu là các loại vitamin và  
					chất xơ, còn các chất dinh dưỡng khác như Pr, L thì không đáng kể, trừ ở một số  
					loại đậu.  
					Hệ vsv sống trong rau xanh và có thể gây hư hỏng, cơ bản là hệ vsv sống  
					và gây bệnh trong hoa quả. Nhưng khác là ở chỗ trên rau xanh do pH gần trung  
					tính có thể phát triển các loại vk mà trong hoa quả do độ pH thấp không thuận  
					lợi cho sự phát triển của chúng. VD: vk lactic có nhiều ở dưa chuột, bắp cải, các  
					chủng vk phát triển trên rau xanh chủ yếu thuộc họ Lactobacterium,  
					Micrococcus, … Ngoài ra còn các loại nấm men, nấm mốc tương tự như trên  
					hoa quả.  
					VSV và các dạng hư hỏng, giảm chất lượng trong sản phẩm động  
					vật.  
					Các loại thịt và sản phẩm từ chúng có thể chứa nhiều loại vsv có khả năng  
					gây hư hỏng thịt và từ thịt có thể nhiễm vào người nhiều loại vsv gây bệnh  
					16  
				VSV đi và thịt từ nhiều nguồn khác nhau, quan trọng nhất là từ da động vật  
					trong khi giết thịt, từ dao thớt, từ chân tay người làm và từ các dụng cụ khác.  
					Nước cũng là nguồn cung cấp vsv cho thịt. Một nguồn quan trọng nhất là từ  
					phần bên trong của súc vật – LÒNG.  
					Thịt hỏng trước hết trên bề mặt ngoài của miếng thịt vì ở những chỗ ấy  
					hàm lượng ẩm cao, có dính máu và tiếp xúc trực tiếp với môi trường không khí.  
					Trên bề mặt hỏng của thịt người ta có thể tìm thấy 50 ÷ 100.106 tb.  
					Bề mặt tiếp xúc của thịt với không khí càng cao thì khả năng hư hỏng của  
					thịt càng lớn. Do vậy thịt xay hoặc thái nhỏ dễ hỏng hơn thịt miếng to.  
					Những yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động của VSV:  
					Sự phát triển của VSV phụ thuộc nhiều vào các yếu tố như: sự có mặt của  
					C, N, vitamin, to, khí quyển và cả thời gian trước khi đến giai đoạn chết cứng  
					của súc vật, những yếu tố trên có sự phụ thuộc qua lại ràng buộc nhau.  
					- Ảnh hưởng của to : đây là yếu tố quan trọng, khi to tăng, tốc độ hoạt động  
					của VSV tăng lên đáng kể. Nhiều loại VSV phát triển tốt trong khoảng nhiệt độ  
					từ 0 ÷ 65oC , tuy nhiên có loại phát triển tốt trong khoảng -2 ÷ 7oC. Có loại có  
					thể sống trong 10h ở to -252oC. Có loại sống đến 5h rưỡi ở 100oC, 2h rưỡi ở 200oC  
					nếu thịt khô. Nói chung ở điều kiện to thấp phần lớn VSV bị ức chế, nhưng nấm  
					mốc nấm men có thể phát triển ở to -5oC. chết dưới -10oC.  
					Thịt từ súc vật có sừng sống ở vùng nhiệt đới có thể bảo quản tốt ở to = -  
					15oC hơn là thịt cùng loại sống ở các nước ôn đới.  
					Thịt lợn, bò , cừu đóng gói và bảo quản ở to 3÷7oC sẽ bị hỏng do  
					Achromobacter và Pseudomonas fluorescens v.v…  
					Khi bảo quản đông lạnh thịt đã nhiễm nhiều VSV trước khi đông  
					lạnh,VSV có thể bị ức chế, nhưng các enzim do chúng tiết ra có thể tiếp tục hoạt  
					động làm hỏng thịt thậm chí cả khi bảo quản ở to -30oC  
					- Ảnh hưởng của độ ẩm:  
					Theo số liệu nghiên cứu cho thấy khi bảo quản lượng VSV có trong thịt  
					phụ thuộc vào độ ẩm như sau:  
					17  
				Trên bề mặt khô  
					(TB VSV/g)  
					40.000  
					Bề mặt ướt  
					(TB VSV/g)  
					400.000  
					T0 bảo quản  
					2 – 30C  
					T/g bảo quản  
					Sau 24h  
					Sau 72h  
					Sau 24h  
					Sau 72h  
					42.000  
					760.000  
					200.000  
					1.000.000  
					3 – 70C  
					4.000.000  
					bắt đầu có mùi ôi  
					Ảnh hưởng của thành phần không khí:  
					Đối với VSV hiếu khí: thành phần O2 trong sản phẩm càng cao thì VSV  
					phát triển càng nhanh. Khi hàm lượng CO2 khoảng 25% sẽ ức chế hoạt động của  
					VSV. Mặt khác sự có mặt của O2 lại có tác dụng giữ màu đỏ tự nhiên của sản  
					phẩm. Để giữ màu của oxxihemoglobin cần 80% O2 trong thành phần khí vì nếu  
					20% O2 còn lại là CO2 thì có thể hạn chế được VSV.  
					Các yếu tố bên ngoài đối với thực phẩm là tính chất của môi trường bảo  
					quản, chúng ảnh hưởng đến cả thực phẩm và hệ vi sinh vật trong thực phẩm.  
					Nhiệt độ bảo quản:  
					Đối với vi sinh vật, từng loại và từng nhóm phát triển trong một khoảng  
					nhiệt độ rộng. Vì vậy khoảng nhiệt độ phát triển của vi sinh vật rất quan trọng  
					đối với thực phẩm nhằm chọn nhiệt độ thích hợp cho quá trình bảo quản các loại  
					thực phẩm khác nhau. Nhiệt độ thấp nhất mà tại đó vi sinh vật có thể phát triển  
					được là – 340C, nhiệt độ cao nhất là > 1000C. Thông thường vi sinh vật được  
					chia làm 3 nhóm dựa trên nhiệt độ phát triển của chúng. Những vi sinh vật phát  
					triển tốt ở nhiệt độ < 70C và có khoảng nhiệt độ phát triển tối ưu là 20 – 300C  
					thuộc nhóm vi sinh vật ưa lạnh. Những vi sinh vật phát triển tốt ở khoảng 20 -  
					450C và nhiệt độ phát triển tối ưu khoảng 30 – 400C là nhóm vi sinh vật ưa ấm,  
					những vi sinh vật phát triển tốt ở khoảng 450C và tối ưu trong khoảng 55 – 600C  
					là vi sinh vật ưa nóng.  
					Chất lượng của sản phẩm thực phẩm cũng cần phải được tính toán để xác  
					định nhiệt độ bảo quản. Mặc dù nên bảo quản thực phẩm ở nhiệt độ lạnh hoặc  
					18  
					 
					 
				thấp hơn, nhưng điều này không phải lúc nào cũng tốt cho việc duy trì chất  
					lượng của một vài loại thực phẩm. Phần lớn các loại rau có nhiệt độ bảo quản  
					thích hợp là khoảng 100C, bao gồm khoai tây, cần tây, bắp cải và nhiều loại rau  
					khác. Trong từng trường hợp, nhiệt độ bảo quản thích hợp tùy thuộc vào sự tồn  
					tại của R.H trong môi trường bảo quản và sự có mặt và sự có hay không có các  
					loại khí CO2 và O2.  
					Nhiệt độ bảo quản là hằng số quan trọng nhất ảnh hưởng đến mức độ hư  
					thối của sản phẩm và điều này đã được nhấn mạnh trong nghiên cứu của nhiều  
					tác giả. Theo họ sự thối hỏng của thực phẩm có thể dự đoán được theo đường  
					cong tỷ lệ hư hỏng. Nhìn chung đường cong hư hỏng là một đường gấp khúc  
					theo nhiệt độ, tương ứng với 5 ngày bảo quản ở O0C và như vậy có thể dự đoán  
					được thời gian bảo quản ở O0C. Nó cũng chỉ ra tỷ lệ hư hỏng của thịt gia cầm  
					tươi ở 100C là gấp 2 lần ở 50C và ở 150C gấp 3 lần ở 50C.  
					Độ ẩm tương đối của môi trường  
					Độ ẩm của môi trường bảo quản quan trọng với cả hoạt độ của nước aw  
					trong thực phẩm và sự phát triển của vi sinh vật trên bề mặt khi aw của thực  
					phẩm ở 0,60, thì điều quan trọng đối với thực phẩm là thực phẩm này cần được  
					tàng trữ ở trong điều kiện R.H (độ ẩm tương đối) mà tại đó thực phẩm không  
					nhận ẩm từ môi trường xung quanh và dẫn đến sự tăng hoạt độ của nước trên bề  
					mặt và bên trong thực phẩm đến điểm mà sự phát triển của vi sinh vật có thể xảy  
					ra. Nhiệt độ càng cao thì độ ẩm càng thấp.  
					Thực phẩm mà bề mặt có chứa vi sinh vật gây hư hỏng như: nấm men,  
					nấm mốc và vi khuẩn thì cần được bảo quản trong điều kiện độ ẩm tương đối  
					thấp. Các loại thịt được bao gói không đúng cách, chẳng hạn như thịt gà nguyên  
					con hay thịt bò cắt thành tảng trong quá trình bảo quản lạnh sẽ bị hư hỏng bề  
					mặt trước khi bên trong xảy ra, do trong máy lạnh độ ẩm tương đối cao và thực  
					tế là hệ vi sinh vật gây hư hỏng thịt cần môi trường hiếu khí. Tuy nhiên có thể  
					hạn chế điều này bằng cách bảo quản trong điều kiện độ ẩm tương đối thấp,  
					cũng cần phải nhớ rằng trong điều kiện như vậy thực phẩm sẽ bị giảm ẩm do đó  
					19  
					 
				trở thành bất lợi. Chọn điều kiện môi trường thích hợp của độ ẩm tương đối là  
					vấn đề đặt ra cần phải xem xét cả hai khả năng là sự phát triển vi sinh vật trên bề  
					mặt và duy trì chất lượng của thực phẩm. Bằng cách thay đổi áp suất khí, như  
					vậy có thể làm chậm lại quá trình thối rữa mà không cần độ ẩm tương đối thấp.  
					•
					Sự có mặt và nồng độ các chất khí trong môi trường  
					Bảo quản thực phẩm trong môi trường chứa khoảng 10% khí CO2 được  
					gọi là bảo quản có điều chỉnh khí hoặc thay đổi áp suất khí (MA). Hiệu quả của  
					việc bảo quản có thay đổi áp suất khí đã được biết đến từ năm 1917 và lần đầu  
					tiên được thương mại hóa vào năm 1920. Việc sử dụng bảo quản bằng điều  
					chỉnh khí với quả đã được áp dụng ở một số nước. Táo và lê là những loại quả  
					thường được xử lý bằng phương pháp này. Hàm lượng CO2 không quá 10 được  
					sử dụng hoặc từ nguồn gốc hóa học hoặc từ đá khô. Cacbon dioxit có tác dụng  
					làm chậm quá trình thối rữa quả do các loại nấm men gây nên. Tuy nhiên, cơ  
					chế hoạt động chính xác của CO2 trong việc làm chậm quá trình hư hỏng quả  
					vẫn chưa được biết đến, có thể là CO2 hoạt động như một chất ức chế cạnh tranh  
					với hoạt động của etylen. Etylen được xem là một tác nhân hoạt động yếu trong  
					quả, sự ức chế của nó có thể ảnh hưởng đến việc giữ cho quả tốt hơn trong điều  
					kiện nhiễm nấm.  
					Việc sử dụng CO2 trong môi trường để kéo dài thời gian tàng trữ của thịt  
					được sử dụng nhiều trong những năm 1980. Trong những năm 1930 thịt được  
					tàng trữ trong các kho hàng của tàu thủy, trong quá trình vận chuyển có bổ sung  
					CO2 để làm tăng thời gian tàng trữ, ý tưởng mới này đã được phát triển bằng  
					việc đóng gói chân không thịt. Rất nhiều tác giả thấy rằng việc bổ sung CO2 làm  
					tăng thời gian bảo quản của nhiều loại thịt khác nhau. Nhìn chung, hiệu quả ức  
					chế của CO2 tăng cùng với sự giảm nhiệt độ, vì CO2 hòa tan tốt hơn ở nhiệt độ  
					thấp và giá trị pH của thịt được tàng trữ trong môi trường có hàm lượng CO2  
					thấp hơn một chút so với giá trị pH của thịt tàng trữ trong môi trường thường do  
					có sự hình thành axit cacbonic.  
					Thịt miếng được tàng trữ trong điều kiện 100% CO2, thời gian bảo quản  
					dài hơn 16 – 27 ngày so với thịt miếng được tàng trữ trong điều kiện 100% N2  
					20  
				hoặc 100% O2 hoặc trong không khí. Thịt miếng được bảo quản ở 10C trong  
					điều kiện 15% CO2 và 85% không khí hoặc trong điều kiện 15% CO2 + 85% O2  
					kéo dài thời gian bảo quản 20 ngày so với bảo quản bằng không khí thường.  
					Hỗn hợp CO2 + O2 có hiệu quả hơn một chút so với hỗn hợp CO2 + không khí.  
					Thịt cừu miếng được tàng trữ ở - 10C trong điều kiện 80% O2 + 20% N2 hoặc  
					80% không khí hoặc O2 + 20% CO2, hoặc 80% N2 hoặc H2 + 20% CO2, vi sinh  
					vật ưa lạnh giảm một cách đáng kể so với khi bảo quản trong không khí. Khi  
					dùng thịt bò miếng mỏng nuôi cấy các tế bào già và chủng Moraxella  
					Acinetobacter được bảo quản ở 50C trong môi trường 70 – 85% CO2, thời gian  
					bảo quản tăng lên 9 ngày so với bảo quản trong điều kiện không khí. Khi nghiên  
					cứu bảo quản thịt lợn ở 40C hoặc 140C, thời gian cần để cung cấp tổng vi sinh  
					vật hiếu khí ở 40C là 5x106 VSV/cm2 kéo dài thời gian bảo quản lên 3 lần so với  
					khi bảo quản ở 5atm CO2 và khoảng 15 lần so với không khí thường. Với việc  
					tàng trữ thịt gia cầm trong điều kiện không khí với môi trường 20% CO2 tổng số  
					vi sinh vật hiếu khí cung cấp là log 6,14. Carbon dioxit không có khả năng  
					chống lại dạng trực khuẩn E. coli. Thời gian bảo quản thịt gà dạng miếng ¼ con  
					có thể kéo dài ít nhất 35 ngày ở 20C khi đóng túi với 60 – 80% CO2.  
					KẾT LUẬN  
					Sau khi nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình hư hỏng của  
					sản phẩm thực phẩm, chúng ta đã đưa ra được các biện pháp bảo quản thực  
					phẩm dựa vào nguyên lý bảo tồn của sự sống như phương pháp bảo quản ở điều  
					kiện thường; dựa vào sự điều chỉnh các yếu tố ảnh hưởng mà đưa ra được các  
					21  
					 
				biện pháp bảo quản lạnh, bảo quản trong môi trường thay đổi thành phần khí  
					quyển, bảo quản bằng hóa chất, một số loại rau quả tươi có thể bảo quản bằng  
					chitosan, bảo quản bằng tia bức xạ… Mỗi một phương pháp sẽ thích hợp cho  
					những sản phẩm khác nhau và phụ thuộc vào đặc tính của từng sản phẩm. Tuy  
					nhiên, để thực hiện tốt được những phương pháp đó, chúng ta cần phải nghiên  
					cứu rất kỹ đặc tính sinh lý, sinh hóa của sản phẩm thực phẩm, nghiên cứu các  
					yếu tố ảnh hưởng như thế nào đến sản phẩm, và từ đó đề ra biện pháp bảo quản  
					phù hợp để đảm bảo chất lượng nguyên liệu tốt cho chế biến và sử dụng.  
					TÀI LIỆU THAM KHẢO  
					1. Hà Văn Thuyết, Trần Quang Bình - Bảo quản rau quả tươi và bán chế  
					phẩm – Nhà xuất bản Nông nghiệp – Hà Nội – 2002  
					2. Hà Văn Thuyết – Đề cương giáo án Cao học – Công nghệ bảo quản thực  
					phẩm – Trường Đại học Bách khoa Hà Nội – Hà Nội – 2008  
					22  
					 
				3. Nguyễn Thị Hiền – Tác động của vi sinh vật và côn trùng trong bảo quản  
					nguyên liệu và sản phẩm thực phẩm – Trường Đại học Bách khoa Hà Nội –  
					Hà Nội – 2005  
					4. Quách Đĩnh, Nguyễn Văn tiếp, Nguyễn Văn Thoa - Công nghệ sau thu  
					hoạch và chế biến rau quả - Nhà xuất bản Khoa học và Kĩ thuật, 1996  
					5. Nguyễn Thị Hiền (Chủ biên), Phan Thị Kim, Trương Thị Hòa, Lê Thị Lan  
					Chi - Vi sinh vật nhiễm tạp trong lương thực- thực phẩm - Nhà xuất bản  
					Nông nghiệp, 2003  
					6. Kiều Hữu Ảnh – Giáo trình Vi sinh vật công nghiệp – Nhà xuất bản Khoa  
					học và kĩ thuật – Hà Nội – 1999  
					7. Lê Văn Hoàng – Cá thịt và chế biến công nghiệp – Nhà xuất bản Khoa học  
					và Kỹ thuật – Hà Nội – 2004  
					23  
				Bạn đang xem tài liệu "Tiểu luận Các yếu tố nhiệt độ, độ ẩm, thành phần khí quyển ảnh hưởng đến các nguyên nhân gây hư hỏng và giảm chất lượng nguyên liệu - sản phẩm thực phẩm", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
        
        
        File đính kèm:
tieu_luan_cac_yeu_to_nhiet_do_do_am_thanh_phan_khi_quyen_anh.doc

