Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP TP.HỒ CHÍ MINH  
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ  
BỘ MÔN: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH  
…oo…  
Khoa: Công nghệ May - Thời Trang  
Lớp: ĐHTR5A-B, Nhóm: 4  
Khoá học: 2010-2011  
GVHD : Th.s Nguyễn Thị Chính  
Tp. HCM, Tháng 6/2010  
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP TP.HỒ CHÍ MINH  
KHOA MÁC-LÊ NIN  
BỘ MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH  
oo…  
Lớp HP: 211200503  
Danh sách nhóm:  
Hoàng Thị Chiên  
Huỳnh Cường  
09225601  
09084731  
09208801  
09216031  
09088761  
09232091  
09204561  
09078161 (NT)  
09077801  
08111411  
Trần Thanh Hải  
Thị Hạnh  
Nguyễn Ngọc Lan  
Nguyễn Thị Hoa  
Trần Lệ Mai  
Phùng Quốc Nhuận  
Văn Niên  
Trần Trung Thới  
Trần Văn Toàn  
Thanh Trúc  
Nguyễn Vũ Vinh  
09096861  
07707331  
08110321  
3
MỤC LỤC  
PHẦN A:MỞ ĐẦU.........................................................................................8  
I.  
ĐẶT VẤN Đ................................................................................8  
MỤC ĐÍCH YÊU CẦU..................................................................8  
ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU........................................................9  
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ..................................................9  
PHẠM VI NGHIÊN CỨU ...........................................................10  
II.  
III.  
IV.  
V.  
PHẦN B: NỘI DUNG TIỂU LUẬN ...........................................................11  
I.  
CƠ SỞ LUẬN ........................................................................11  
NỘI DUNG CHỦ YẾU................................................................18  
II.  
PHẦN C: KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ..........................................................33  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
4
1.  
Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh của Bộ giáo dục Đào tạo,  
NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2007.  
2.  
Tài liệu hướng dẫn nghiên cứu học tập Tư tưởng Hồ Chí  
Minh của Ban Tư tưởng văn hoá Trung ương, NXB. Chính trị Quốc  
gia, Hà Nội, 2003.  
3.  
Giáo trình Hướng dẫn học phần tư tưởng Hồ Chí Minh của  
trường ĐH Công Nghiệp Tp HCM  
4.  
Tìm hiểu một số vấn đề tư tưởng Hồ Chí Minh, NXB. Sự  
Thật, Nội, 1982.  
5.  
6.  
Sách tư tưởng Hồ Chí Minh của tác giả Nguyễn Văn Đức.  
Một số tài liệu khác…  
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN  
5
Nhận xét chung:  
Điểm cho từng sinh viên:  
STT  
HỌ VÀ TÊN  
NHIỆM VỤ  
ĐIỂM  
6
1
2
3
4
5
6
7
8
9
Hoàng Thị Chiên  
Huỳnh Cường  
Trần Thanh Hải  
Thị Hạnh  
Đánh máy và tìm tài liệu  
Đánh máy và tìm tài liệu  
Tìm tài liệu  
Tìm tài liệu  
Nguyển Thị Hoa  
Nguyễn Ngọc Lan  
Trần Lệ Mai  
Tìm tài liệu  
Tìm tài liệu  
Tìm tài liệu  
Phùng Quốc Nhuận Đánh máy và tìm tài liệu  
Văn Niên  
Tìm tài liệu  
Tìm tài liệu  
Tìm tài liệu  
Tìm tài liệu  
Tìm tài liệu  
10 Trần Trung Thới  
11 Trần Văn Toàn  
12 Thanh Trúc  
13 Nguyễn Vũ Vinh  
PHẦN A: MỞ ĐẦU  
7
I - ĐẶT VẤN ĐỀ  
1.1.1) Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá.  
1.1.2) Lý do, sự cần thiết tiến hành việc nghiên cứu, chọn tiểu luận.  
Văn hoá là đời sống tinh thần của hội, thuộc kiến trúc thượng tầng. Hồ  
Chí Minh đã đặt văn hoá ngang hàng với chính trị, kinh tế, hội, tạo thành bốn  
vấn đề chủ yếu của hội và các vấn đề này có quan hệ với nhau rất mật thiết.  
Cho nên trong công cuộc xây dựng đất nước, cả bốn vấn đề này được coi trong  
như nhau.  
Văn hoá không thể đứng ngoài mà phải đứng trong kinh tế và chính trị, phải  
phục vụ nhiệm vụ chính trị và thúc đẩy sự phát triển của kinh tế.  
Văn hoá giữ một vai trò quan trọng trong việc phát triển đất nước. Văn hoá  
đời sống tinh thần của hội,văn hoá có phát triển thì xã hội đó mới phát  
triển vững mạnh. vậy, việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá  
một điều rất cần thiết rất cần được quan tâm và chú trọng.  
II - MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU:  
2.1) Mục đích:  
Trang bị cho sinh viên một cách đầy đủ, toàn diện về nhận thức. Qua đó  
giúp sinh viên có cái nhìn khái quát, biết vận dụng kiến thức đó với tình hình  
thực tiễn của đất nước, liên hệ với bản thân qua tu dưỡng rèn luyện theo phong  
cách Hồ Chí Minh.  
8
2.2)  
Yêu cầu:  
-
Tập hợp sức mạnh tập thể của các thành viên trong nhóm, có sự phân  
công, giao việc cụ thể, rõ ràng giữa các thành viên.  
-
-
Nắm vững hững nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá.  
Thu thập xử lý thông tin qua ngiên cứu , tham khảo qua sách vở và các  
phương tiện thông tin đại chúng.  
Vận dụng các kiến thức cơ bản và liên hệ với tình hình thực tiễn của đất  
-
nước, liên hệ với bản thân tu dưỡng rèn luyện.  
III - ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU  
Nghiên cứu về Tư tưởng Hồ Chí Minh về các vần đề văn hoá về giáo dục,  
văn nghệ đời sống trước và sau năm 1969.  
Các chủ trương chính sách của Đảng trong từng giai đoạn lịch sử, khẳng  
định rõ vai trò của Hồ Chí Minh trong việc duy trì và phát triển nền văn hoá của  
nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.  
IV - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU  
4.1) Phương pháp trừu tượng hoá khoa học:  
Đề tài mang tính chất khoa học hội khái quát, không thể nghiên cứu,  
tiến hành trong phòng thí nghiệm chỉ thể thử nghiệm trong đời sống hiện  
thực, đụng chạm đến lợi ích con người. Việc kiểm tra, thử nghiệm cụ thể thể  
tiến hành trong phạm vi rất hạn chế. Do vậy, đề tài sử dụng phương pháp trừu  
tượng hoá khoa học, gạt bỏ những yếu tố ngẫu nhiên trong quá trình nghiên cứu,  
nắm vững bản chất của hiện tượng để tách ra cái điển hình, bền vững, ổn định.  
4.2) Phương pháp thống kê:  
9
Trong quá trình nghiên cứu đề tài: Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá,  
nhóm sử dụng phương pháp thống để đưa ra dẫn chứng về hiện thực để lý  
luận cho những mặt tích cực và tiêu cực của hội đối với văn hoá.  
V - PHẠM VI NGHIÊN CỨU  
Tiểu luận được nghiên cứu trong 3 tuần, đề tài “Tư tương Hồ Chí Minh về văn  
hoá” đề tài rộng lớn với nhiều nội dung cơ bản, sự thay đổi về chủ trương  
chính sách của Đảng trong cái mốc thời gian lịch sử. Do vậy, nhóm chỉ nghiên  
cứu về Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá trong hai giai đoạn : trước 1969 và  
sau 1969.  
PHẦN B: NỘI DUNG TIỂU LUẬN  
I - CƠ SỞ LUẬN  
10  
1.1/ Khái niệm về văn hoá theo tư tưởng HChí Minh  
1.1.1) Khái niệm  
Thực trạng nền văn hoá truyền thông VN trước Cách mạng Tháng Tám:  
Thực trạng nền văn hoá truyền thông Việt Nam trước Cách mạng Tháng Tám  
1945 có những biển hiện sau:  
- Đó nền văn hoá theo chủ nghĩa dân tộc chật hẹp. Nền văn hoá truyền  
thông ddx đạt được những giá trị yêu nước to lớn, song nó phát triển cạnh chủ  
nghĩa bành trướng Đại Hán nên cũng trở thành một chủ nghĩa Đại Việt hẹp hòi.  
- Đó một nền văn hoá thiếu hụt một truyền thống khoa học, đặc biệt là khoa  
học tự nhiên. Kết cấu giai cấp trong xã hội cổ truyền không những không có giai  
cấp đại biểu cho công nghiệp mà còn vắng bóng cả tầng lớp trí thức đại biểu cho  
khoa học kẻ sĩ trong xã hội truyền thống làm quan (văn, võ) thảo binh thư, quốc  
pháp, lúc bãi triều thường làm thầy đồ, thầy thuốc thầy địa để dạy chữ, bốc  
thuốc chữa bệnh trấn an tâm linh cho cộng đồng dân cư. Tư duy lý luận các  
khái niệm khoa học, phương pháp khoa học chưa được coi trọng trong nền văn  
hoá truyền thống.  
- Nền văn hoá truyền thống của người Việt có hai dòng văn hoá rõ rệt.Dòng  
văn hoá dân gian, văn hoá đại chúng thường phản ánh các kinh nghiệm sản xuất,  
tìn cảm yêu thiên nhiên, tình cảm trai gái, trữ tình. Nó không phải những  
quan hệ, khuynh hướng văn hoá chính thống ưu tiên của hội, còn nền văn  
hoá bác học thường chịu ảnh hưởng nhiều của văn hoá Trung Quốc.  
- Văn hoá Trung Hoa và các tư tưởng của hệ tư tương Nho-Phật-Lão ảnh  
hưởng rất mạnh trong văn hoá truyền thống Việt Nam. Các tư tưởng nay chi  
11  
phối thiết chế văn hoá lao động, văn hoá giao tiếp và các quan hệ khác, vừa ảnh  
hưởng lớn đến nhân cách làm người đặc biệt là nhân cách kẻ sĩ.  
Khái niệm văn hoá:  
Theo Hồ Chí Minh văn hoá có khái niệm: lẽ sinh tồn cũng như mục  
đích của cuộc sống loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết,  
đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn hoá nghệ thuật, những công cụ hàng  
ngày về ăn, mặc, ở, phương thức sử dụng toàn bộ những sáng tạo và phát  
minh đó văn hoá. Văn hoá là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt  
cùng với những biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng  
những nhu cầu đời sống đòi hỏi sự sinh tồn.  
Nền văn hoá mới theo quan điểm của Hồ Chí Minh chứa đựng nhiều nội dung  
phong phú, sâu sắc, liên quan tới các vấn đề như ý thức độc lập tự chủ, tự lực tự  
cường, nền văn hoá mới đó nhân dân phát huy quyền làm chủ của mình, được  
sống tự do, bình đẳng, hạnh phúc…  
1.1.2) Quan điểm về xây dựng một nền văn hoá mới :  
Cùng với định nghĩa về văn hoá, Hồ Chí Minh còn đưa ra năm điểm lớn định  
hướng cho việc xây dựng nền văn hoá dân tộc:  
1. Xây dựng tâm lý: tinh thần độc lập tự cường.  
2. Xây dựng luân lý: biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng.  
3.Xây dựng hội: mọi sự nghiệp có liên quan đến phúc lợi của nhân dân  
trong xã hội.  
4. Xây dựng chính trị: dân quyền.  
12  
5. Xây dựng kinh tế.  
Từ rất sớm, Bác đã quan tâm đến văn hoá. Điều này chứng minh vì sao sau  
khi độc lập, Bác đã bắt tay vào xây dựng một nền văn hoá mới cho Việt Nam.  
1.1.3) Sự vận dụng sáng tạo của HChí Minh trong xây dựng nền văn hoá mới:  
Năm 1943 với Đề cương về văn hoá Việt Nam của mình, Đảng Cộng sản ra  
tuyên ngôn cơ cấu lại nền văn hoá truyền thống theo tư tưởng mácxít. Nhấn  
mạnh các tư tưởng của Đảng Cộng sản thể hiện trong Đề cương về văn hoá Việt  
Nam 1943, Chủ tịch HChí Minh đã nêu rõ phương thức cơ cấu lại nền văn hoá  
truyền thống trong giai đoạn lịch sử mới của dân tộc. Như đã trình bày trong  
Báo cáo chính trị đọc tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ II, ngày 11-2-1951,  
Hồ Chí Minh viết rằng: “Xúc tiến công tác văn hoá để đào tạo con người mới và  
cán bộ cho công cuộc kháng chiến kiến quốc. Phải triết để tẩy trừ mọi di tích  
thuộc địa ảnh hưởng của văn hoá đế quốc. Đồng thời, phát triển những  
truyền thống tốt đẹp của văn hoá dân tộc hấp thụ những cái mới của văn hoá  
xây dựng một nền văn hoá Việt Nam có tính chất dân tộc, khoa học đại  
chúng”.  
Xây dựng nền văn hoá mới Việt Nam, Hồ Chí Minh đã xuất phát từ một  
nguyên lý tư tưởng mới, trước hết là nguyên lý tư tưởng về truyền thống hiện  
đại. Nền văn hoá mới phải kế tục những giá trị nội dinh của nền văn hoá truyền  
thống, đồng thời phát triển những giá trị truyền thống hấp thụ những cái  
mới của văn hoá tiến bộ. Đó là nguyên lý tư tưởng quan trọng bậc nhất của các  
nước phát triển xây dựng nền văn hoá mới.  
Như đã trình bày, chủ nghĩa yêu nước truyền thống trong tư tưởng Hồ Chí  
Minh là một giá trị quan trọng. đã tạo nên khí phách kiên cường chủ  
13  
nghĩa anh hùng Việt Nam. Nó thử thách cái đẹp, cái xấu, cái cao cả, cái thấp  
hèn, cái chính nghĩa, cái phi nghĩa. Tuy nhiên chủ nghĩa yêu nước truyền thống  
coi vấn đề dân tộc theo một thế giới quan “vị chủng”. Xây dựng nền văn hoá  
mới, tư tưởng biến nền văn hoá dân tộc thành “một bộ phận tinh thần quốc tế”,  
một mặt, mỗi dân tộc phải chăm lo tới sự phát triển toàn diện của mình, mặt  
khác nó phải xác lập được nguyên lý giao tiếp văn hoá bình đẳng trên nền tảng  
giá trị. Văn hoá Việt Nam vừa kết tinh bản sắc dân tộc, vừa gắn với các giá trị  
văn hoá loài người. Dưới ánh sáng tư tưởng văn hoá Hồ Chí Minh, mấy chục  
năm qua văn hoá Việt Nam đã được cơ cấu lại theo định chuẩn dân tộc mới. Các  
thành tựu của nó to lớn đáng tự hào. Sự tham gia của Hồ Chí Minh vào việc  
làm trong sáng tiếng Việt đã ngày càng làm hoàn thiện và nâng cao những giá  
trị văn hoá mới. Nền văn hoá mới có giao lưu quốc tế mở rộng.  
Hiệu ứng lịch sử một quy luật rất nghiêm ngặt. Đó là quy luật phát triển tự  
nhiên nội sinh của các quá trình văn hoá. Nếu tuyền thống không phat triển kịp  
các giá trị mới thì sự hấp thụ văn hoá sẽ gặp nhiều khó khăn xuất hiện hai  
khuynh hướng lai căng. Hồ Chí Minh đã nhìn thấy trước cảnh báo “phải tránh  
nguy cơ trở thành kẻ bắt chước”.  
1.2/ Những quan điểm chung của Hồ Chí Minh về văn hoá  
1.2.1) Quan niệm về vtrí, vai trò của văn hoá  
Từ sau Cách mạng Tháng Tám 1945 văn hoá được Hồ Chí Minh xác định đời  
sống tinh thần của hội, thuộc kiến trúc thượng tầng.Văn hoá có mối quan hệ  
mật thiết với kinh tế, chính trị, hội. Chính trị hội được giả phóng thì văn  
hoá mới được giải phóng. Chính trị giải phóng mở đường cho văn hoá phát triển.  
Hồ Chí Minh đã vạch ra đường lối “Phải tiến hành cách mạng chính trị trước, cụ  
14  
thể là cách mạng giải phóng dân tộc để giành chính quyền, từ đó giải phóng văn  
hoá, mở đường cho văn hoá phát triển”. Người còn nhấn mạnh “Xã hội thế nào  
thì văn hoá thế ấy. Văn nghệ của ta rất phong phú, nhưng dưới chế độ thực dân  
và phong kiến nhân dân ta bị nộ lệ, thì văn nghệ cũng bị lệ, bị tồi tàn, không  
thể phát triển được”. Văn hoá là một kiến trúc thượng tầng nhưng không đứng  
ngoài mà phải ở trong kinh tế và chính trị. Văn hoá phải phục vụ nhiệm vụ chính  
trị, thúc đẩy xây dựng và phát triển kinh tế. Tuy kinh tế kiến thiết rồi, văn hoá  
mới kiến thiết được nhưng văn hoá phát triển không thụ động phải có tính  
tích cực chủ động. đóng vai trò to lớn thúc đẩy kinh tế và chính trị phát triển  
như một động lực. “Văn hoá trong kinh tế” tức văn hoá phải phục vụ, thúc  
đẩy xây dựng và phát triển kinh tế. Văn hoá trong kinh tế và chính trị cũng có  
nghĩa là chính trị và kinh tế phải có tính văn hoá.  
1.2.2) Quan điểm về chức năng của văn hoá  
Theo quan niệm của Hồ Chí Minh, văn hoá có ba chức năng chủ yếu :  
Một là, bồi dưỡng tư tưởng đạo đức đúng đắn và tình cảm cao đẹp cho con  
người. Văn hoá thuộc đời sống tinh thần của hội. Người thường xuyên quan  
tâm đến việc bồi dưỡng tưởng cho cán bộ, Đảng viên và các tầng lớp nhân  
dân. Đó chức năng cao quý cuả văn hoá. Văn hoá còn góp phần xây đắp niềm  
tin con người, niềm tin khoa học, cách mạng, tin vào nhân dân, tin vào tiền đồ  
tươi sáng của Cách mạng. Hồ Chí Minh nói phải làm cho văn hoá soi đường cho  
quốc dân đi, đi sâu vào tâm lý quốc dân, để xây dựng tình cảm lớn cho con  
người.  
Hai là, nâng cao dân trí. Người đã răn dạy “một dân tộc dốt là dân tộc yếu”.  
Chính vì thế “mọi người phải hiểu biết quyền lợi của mình…phải kiến thức  
15  
mới thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà, và trước hết phải biết  
đọc, biết viết chữ Quốc ngữ. Tiếp đến là các hiểu biết các lĩnh vực khác nhau vè  
chính trị, kinh tế, văn hoá. Tuỳ từng giai đoạn cách mạng mục đích của nâng  
cao dân trí có điểm chung và riêng. Nhưng xuyên suốt là vì mục tiêu độc lập dân  
tộc chủ nghĩa hội.  
Ba là, bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, những phong cách, lối sống lành  
mạnh, luôn hướng con người vươn tới chân-thiện-mỹ để không ngừng hòn thiện  
bản thân mình. Những phẩm chất tốt đẹp làm nên giá trị của con người. Mỗi  
người phải biến tư tưởng và tình cảm lớn thành phẩm chất cao đẹp. Đó thể là  
phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức, phẩm chất chuyên môn nghiệp vụ. Hồ  
Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh phẩm chất đạo đức, chính trị của cán bộ Đảng  
viên. Nếu không có những phẩm chất đó thì không thể biến tưởng thành hiện  
thực. Văn hoá giúp con người phân biệt cái tốt - xấu, cái lạc hậu tiến bộ… Từ  
đó văn hoá hướng con người vươn tới chân - thiện - mỹ.  
1.2.3) Quan điểm về tính chất của nền văn hoá mới  
Nền văn hoá mới nền văn hoá dân chủ mới, đồng thời nền văn hoá kháng  
chiến. Nền văn hoá đó có ba tính chất: tính dân tộc – khoa học đại chúng.  
- Tính dân tộc, đặc tính dân tộc hay cốt cách dân tộc là cái tinh túy đặc trưng  
riêng của văn hoá dân tộc. Cốt cách văn hoá dân tộc không phải “nhất thành bất  
biến”, mà có thể phát triển bổ sung nét mới. Biết giữ gìn, kế thừa và phát huy  
những truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc.  
- Tính khoa học :để phát triển được các giá trị truyền thống, hấp thụ các cái mới,  
cơ cấu lại nền văn hoá Việt Nam, Đảng Cộng sản Hồ Chí Minh coi việc xây  
16  
dựng một hệ thống các giá trị khoa học trong đời sống hội một ý nghĩa đặc  
biệt quan trọng.  
Nền văn hoá truyền thống trong toàn cơ cấu của chưa được xây dựng trên nền  
tảng khoa học. Nền sản xuất nhỏ, tư duy kinh nghiệm chiếm vị trí ưu trội trong  
nền văn hoá ấy. Hồ Chí Minh đã khẳng định tư tưởng khoa học hoá có một ý  
nghĩa rất quan trọng. Chỉ có khoa học mới bắt kịp được nền văn minh thế giới.  
Một nền văn hoá dựa trên cơ sở khoa học dựa vào chiếc kiềng ba chân của cái  
đúng, cái chân lý, đó là:  
+ Quy luật khách quan  
+ Cơ cấu công nghệ  
+ Hành lang pháp luật.  
Những người làm văn hoá phải có trí tuệ, hiểu biết khoa hoc tiên tiến, phải có  
chiến lược xây dựng văn hoá mang tầm thời đại.  
- Tính đại chúng: phục vụ nhân dân, phù hợp nguyện vọng của nhân dân, đậm  
đà tính nhân văn.  
Nguyên tắc đại chúng hoá Đề cương văn hoá năm 1943 đã nêu được Chủ tịch  
Hồ Chí Minh khẳng định tại Đại hội Đảng lần thứ II năm 1951 xuất phát từ một  
quan điểm lớn của lịch sử. Đó là nguyên tắc giải phóng năng lượng sáng tạo to  
lớn trong lịch sử văn hoá Việt Nam. Ánh sáng của mở đường, rọi chiếu xuống  
lòng sâu xã hội, làm bật dậy các khả năng sáng tạo và khêu gợi trong tận cùng  
tâm khảm những khát vọng sáng tạo của hàng triệu quần chúng đã từng bị lịch sử  
dồn nén và bỏ quên. Trên ý tưởng này, Hồ Chí Minh đã nói rằng: sản xuất văn  
hoá nghệ thuật cốt để phục vụ nhân dân.  
17  
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, khái niệm nhân dân, đại chúng vừa có tính phổ  
cập vừa có tính nâng cao. Tính phổ cập ở chổ dễ hiểu, nhiều người cùng biết,  
nhiều người cùng thực hiện; thực hiện một lần rồi lại thực hiện nhiều lần. Như  
Hồ Chí Minh thường nói về lợi ích của văn hoá nghệ thuật đối với nhân dân, làm  
sao cho mọi người thích xem, khi xem thì hiểu, xem một lần rồi muốn xem thêm.  
Tính nâng cao ở chỗ kết tinh tinh hoa của cộng động rộng lớn, thể hiện cái  
khát vọng vươn lên của những lực lượng cách mạng và có thể cách mạng tới  
cùng. Nó làm nền tảng của mọi sự phát triển lành mạnh của hội. Hồ Chí Minh  
đã nói về phẩm chất của nhân dân như sau: “Đằng sau sự phục tùng tiêu cực giấu  
một cái gì đang sôi sục, đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm”.  
Hồ Chí Minh quan tâm đến tính đại chúng của văn hoá trên nền tảng giá trị và  
tính liên tục lịch sử. Các giá trị văn hoá do quần chúng sáng tạo, phục vụ quần  
chúng, đánh thức những nhà văn hoá trong biển cả quần chúng từ thế hệ này  
sang thế hệ khác tạo ra những vòng khâu chất lượng tận của chủ thể đối  
tượng văn hoá trong các nhu cầu ngày càng cao của lịch sử. Trong tư tưởng văn  
hoá Hồ Chí Minh, tính đại chúng vừa mang tính chính trị vừa mang tính phổ cập  
và nâng cao của văn hoá. Văn hoá khơi dậy khả năng sáng tạo của đại chúng,  
chúng tạo nên các chủ thể văn hoá có chất lượng cao trong lịch sử. Đó chính là  
nội dung cơ bản chủ của yếu tố văn hoá trong sự phát triển của hội.  
II - NỘI DUNG CHỦ YẾU  
2.1) Trước khi Bác mất. (trước 1969)  
2.1.1) Xây dựng nền kinh tế.  
Nước ta là một nước nông nghiệp lạc hậu, nông dân là lực lượng đông đảo  
nhất trong xã hội, bị đế quốc, phong kiến bóc lột nặng nề.  
18  
Nền kinh tế của nước ta bị lệ thuộc vào đế quốc thực dân phong kiến.  
Bác chủ yếu vận động bà con nhân dân phát triển kinh tế chủ yếu phục vụ  
cho chiến đấu giải phóng dân tộc.  
(Bác Hồ đi thăm bà con nông dân tỉnh Tuyên Quang trong cải cách ruộng đất)  
2.1.2) Bác trong công tác giáo dục:  
Hồ Chí Minh phê phán nền giáo dục phong kiến (kinh viện, xa thực tế, coi sách  
của thánh hiền đỉnh cao của tri thức…) nền giáo dục thực dân ( ngu dân,  
đồi bại, xảo trá, nguy hiểm hơn cả sự dốt nát).Người quan tâm xây dựng nền  
giáo dục mới của nước việt nam độc lập. Nền giáo dục này được hình thành từ  
những năm hai mươi, thực sự ra đời từ cách mạng tháng tám thánh công và phát  
triển cùng sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Hồ chí minh xác định, xây dựng  
nền giáo dục mới một nhiệm vụ cấp bách, có ý nghĩa chiến lược, vì nó góp  
phần làm cho dân tộc ta xứng đáng với nước việt nam độc lập. Văn hóa giáo dục  
một mặt trận quan trọng trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa hội đấu  
tranh thống nhất nước nhà.  
19  
( Bác Hồ đến thăm lớp học_bồi dưỡng văn hóa cho đồng bào Tây Nguyên)  
Quan điểm Hồ Chí Minh về văn hóa giáo dục:  
-
Mục tiêu của văn hóa giáo dục thực hiện cả 3 chức năng của văn hóa  
giáo dục: dạy học để bồi dưỡng tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp; mở  
mang dân trí; bồi dưỡng những phẩm chất và phong cách tốt đẹp cho con người.  
Giáo dục để đào tạo con người có ích cho xã hội. Học để làm việc, làm người,  
làm cán bộ. Giáo dục nhằm đào tạo con người đức, có tài, kế tục sự ngiệp  
cách mạng, làm cho nước ta sánh vai cùng các cường quốc năm châu.  
-
Cải cách giáo dục bao gồm xây dựng chương trình, nội dung dạy học  
hợp lý, phù hợp với các giai đoạn cách mạng. Nội dung giáo dục phải toàn diện:  
văn hóa, chính trị, chuyên môn nghiệp vụ, lao động… Các nội dung đó mối  
quan hệ mật thiết với nhau. Học chính trị khoa học chủ nghĩa Mác - Lê Nin,  
đường lối, chính sách của đảng và nhà nước. Cải cách khoa học phải sáng tạo,  
không giáo điều. Học để nắm các quan điểm có tính nguyên tắc, phương pháp  
luận. Học khoa học kĩ thuật để đáp ứng đòi hỏi của thời đại mới, thời đại mới,  
thời đại của cánh mạng khoa học- công nghệ đang phát triển như vũ bão.  
Phương châm giáo dục:  
Phương châm bao gồm: học đi đôi với hành, lý luận liên hệ với thực tế;  
học tập kết hợp với lao động; phối hợp nhà trường - gia đình - xã hội; thực hiện  
20  
dân chủ, bình đẳng trong giáo dục; trong suốt đời. Coi trọng việc tự học, tự đào  
tạo đào tạo lại. Học ở mọi lúc, mọi nơi, học mọi người.  
Ngôn ngữ của Chủ tịch Hồ Chí Minh  
Chủ tịch Hồ Chí Minh học rất nhiều ngôn ngữ trên thế giới, nhưng lại dùng  
tiếng Việt một cách đơn giản, chuẩn mực và trong sáng. Tiếng Việt trong ngôn  
ngữ của Bác là văn hoá, hồn cốt Việt, là tình yêu nước, yêu dân vô hạn… Trong  
số những người nghiên cứu về ngôn ngữ Chủ tịch Hồ Chí Minh có GS.TS Bùi  
Khánh Thế, một người con miền Nam vinh dự được gặp Bác Hồ ba lần. Những  
lời dạy của Người đã theo sự nghiệp nghiên cứu ngôn ngữ của ông suốt cuộc  
đời. “Bác là người tinh tế về mặt phong cách: Bác nói với người nông dân bằng  
ngôn ngữ của người nông dân. Bác nói với người trí thức bằng ngôn ngữ của  
người trí thức. Cho nên không phải ngẫu nhiên ông Phạm Huy Thông - một nhà  
Tây học nói: Cụ Hồ dùng ngôn ngữ của Pháp tinh tế như người Pháp, khi nói  
chuyện với người Nga thì am hiểu như người Nga. Sở dĩ được như vậy vì Bác  
thâm nhập vào nhân dân rất sâu, tát nước với nông dân, kéo lưới với ngư phủ,  
Bác đến lớp học ở Hàng Than. Bác thâm nhập vào dân nên bác hiểu ngôn ngữ.  
2.1.3) Bác trong công tác văn nghệ.  
Văn nghệ một mặt trận, văn nghệ sĩ chiến sĩ, tác phẩm văn nghệ là  
khí sắc bén trong đấu tranh cách mạng, trong xây dựng hội mới, con người  
mới.  
-
Hồ Chí Minh với tư cách là một nhà nhân văn chân chính, nhà văn hóa  
kiệt xuất ngay từ rất sớm đã nắm bắt được quy luật hình thành, vận động và phát  
triển của một nền văn hóa. Xuyên suốt các tác phẩm của Người, từ "Đường Cách  
21  
mệnh" (1927), "Sửa đổi lối làm việc" (1947), "Cần, kiệm, liêm, chính" (1949)  
cho đến "Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân" (1969) và  
bản Di chúc của Người (1969) ta luôn thấy được lòng yêu nước, tính nhân văn  
sâu sắc trong đó.Trong nhận thức của Người, "Văn hóa Việt Nam chứa đựng sự  
kỳ diệu giữa cái ổn định và cái linh hoạt" bởi lẽ nền văn hóa này có sợi dây liên  
hệ bền chặt với cuộc sống. Và, một trong những nội dung cơ bản trong tư tưởng  
của Người về văn hóa đó "Văn hóa phải gắn liền với cuộc sống". Tư tưởng cốt  
lõi này trở thành nội dung xuyên suốt được quán triệt sâu sắc góp phần mang lại  
nét độc đáo riêng có trong hầu hết các giá trị văn hóa mà Hồ Chí Minh để lại.  
-
Hồ Chí Minh am hiểu nhiều lĩnh vực văn hóa nghệ thuật như: Dân ca, âm  
nhạc, đến hội họa, thơ ca cổ điển... Người đã từng khuyên chúng ta phải biết kế  
thừa, phát triển di sản quý báu ấy. Người nói xóa bỏ triệt để những cái cũ phiền  
phức, phát triển những cái tốt, phải triệt để làm những cái mới và hay,  
phải giữ gìn thuần phong, mĩ tục, phải tẩy sạch những gì mà giáo dục thực dân  
để lại...  
( Bác lên sân khấu với nghệ )  
Văn nghệ phải gắn với thực tiễn của đời sống nhân dân. Thực tại đem lại  
nguồn sinh khí vô tận cho văn nghệ. Chiến sĩ văn nghệ phải thật hòa mình với  
quần chúng và không được quên rằng “…chỉ có nhân dân mới nuôi dưỡng cho  
22  
sáng tác của nhà văn bằng những nguồn nhựa sống. Còn nếu nhà văn quên điều  
đó thì nhân dân cũng sẽ quên anh ta.” Thực tiễn không chỉ nguồn nuôi dưỡng  
những sáng tác, mà còn là những tinh hoa trong sáng tác dân gian đã được chắt  
lọc từ thế hệ này qua thế hệ khác.  
Phải những tác phẩm văn nghệ xứng đáng với thời đại mới của đất  
nước và dân tộc. Phải phản ánh cho hay, cho chân thật sự nghiệp cách mạng của  
nhân dân.Văn nghệ phải hướng dẫn nhân dân loại bỏ cái giả, cái sai, cái không  
đúng, để vươn tới cái lý tưởng đó chính là sự phản ánh có tính hướng đích của  
văn nghệ.  
2.1.4) Bác trong công tác đời sống.  
Xây dựng đời sống văn hóa mới được Hồ Chí Minh chỉ ra ngay sau khi mới  
giành được chính quyền, rồi nhanh chóng trở thành một phong trào quần chúng  
sôi nổi, tạo động lực mạnh mẽ cho sự nghiệp kháng chiến kiến quốc.  
Đạo đức mới: thực hành đời sống mới trước hết thực hành đạo đức cách  
mạng cần, kiệm, liêm, chính.  
Lối sống mới: lối sống mới lối sống có lý tưởng, đạo đức; kết hợp hài  
hòa đời sống văn minh, và tinh hoa văn hóa nhân loại tạo nên lối sống văn minh,  
tiên tiến. Tính văn hóa ở đây biết cách ăn mặc, cách mặc, cách ở,.. Con ngừơi  
văn hóa trong lối sống phải một phong cách sống khiêm tốn, giản dị, chừng  
mực, điều độ, ngăn nắp, vệ sinh, yêu lao động, quý thời gian, ít lòng ham muốn  
về vật chất, về chức quyền, danh lợi. trong quan hệ với nhân dân, bạn bè, đồng  
chí thì cởi mở, chân tình, ân cần, tế nhị, giàu lòng thương yêu người…  
23  
Nếp sống mới: Xây dựng nếp sống mới là xây dựng những thói quen và  
phong tục tập quán tốt đẹp, kế thừa và phát triển được những thuần phong mĩ tục  
lâu đời của dân tộc.  
2.2) Sau khi Bác mất. (sau 1969)  
2.2.1) Xây dựng kinh tế.  
Tất cả chúng ta đều đồng ý là sự phát triển kinh tế càng ngày càng tăng sau  
khi đổi mới đã làm cho cuộc sống dân chúng khá lên, và đến năm 2010 chúng ta  
sẽ thoát khỏi nhóm các nước đói nghèo. Nhưng không nhiều người chú trọng vào  
văn hóa, như động lực của kinh tế, như ý kiến của UNESCO.  
Toàn cầu hóa kinh tế quốc tế một xu thế, đòi hỏi chúng ta phải chủ động  
và tích cực hội nhập.  
dụ:  
1. Khai thác sử dụng vùng biển bờ biển hiệu quả về kinh tế. (Mũi Né –  
Bình Thuận).  
24  
2.  
Mối quan hệ giữa người Kinh và đồng bào dân tộc thiểu số thời hội  
nhập.  
3.  
Bảng xếp hạng chỉ số năng lực cạnh tranh ngành du lịch khu vực Châu Á  
Thái Bình Dương (2008 – 2009).  
Đây cơ hội để chúng ta phát triển nhanh có hiệu quả, nhưng cũng là thách  
thức rất lớn với nước ta trên nhiều mặt, trong đó cả văn hóa. Sự thâm nhập  
của văn hóa độc hại, của sự lai căng văn hóa, của lối sống thực dụng những  
tiêu cực khác của kinh tế thị trường…, đã đang ảnh hưởng, làm băng  
hoại những giá trị văn hóa truyền thống, ảnh hưởng tới sự phát triển bền vững  
của đất nước.  
Tạo sự hài hoà giữa phát triển văn hoá và kinh tế.  
25  
Phát biểu tại Hội nghị, ông Tô Huy Rứa nhấn mạnh: Phát triển văn hoá trong  
kinh tế thị trường, trước hết cần nhận thức đúng về kinh tế thị trường cần thấy  
rõ vai trò của văn hoá trong việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã  
hội chủ nghĩa ở nước ta. Vai trò của văn hoá được thể hiện ở tầm hoạch định  
chiến lược trong phát triển kinh tế - xã hội dựa trên nền tảng văn hoá và nguồn  
lực hội, trong đó quan trọng nhất nguồn lực con người chất lượng nguồn  
nhân lực.  
Sự tăng trưởng của ngành kinh tế từ năm 1989 đến 2003.  
26  
2.2.2) Đảng tiếp nối tư tưởng của Bác trong công tác giáo dục, văn nghệ đời  
sống.  
-
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội  
(năm 1991) của Đảng ta nêu rõ rằng, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản  
sắc dân tộc một trong những nội dung cơ bản của việc xây dựng chủ nghĩa xã  
hội ở Việt Nam. Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng yêu cầu: đưa các nhân tố văn  
hóa, tinh thần thấm sâu vào các lĩnh vực của đời sống hội. Nghị quyết Trung  
ương 5, khóa VIII, ghi rõ: "Để đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng về văn hóa, phải  
xây dựng văn hóa từ trong Đảng, trong bộ máy nhà nước..." khẳng định rằng:  
"Đặt trọng tâm vào nhiệm vụ xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống đời sống  
văn hóa lành mạnh trong xã hội, trước hết là trong các tổ chức đảng và nhà  
nước, trong các đoàn thể quần chúng và trong từng gia đình".  
-
Nghị quyết Đại hội IX của Đảng một lần nữa yêu cầu: "Nâng cao tính  
văn hóa trong mọi hoạt động kinh tế, chính trị, hội và sinh hoạt của nhân  
dân". Kết luận của Hội nghị Trung ương 10, khóa IX, nhấn mạnh: Tiếp tục đặt  
lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống đời sống lành  
mạnh trong xã hội, trước hết là trong các tổ chức đảng và nhà nước. Trong Diễn  
văn đọc tại Lễ kỷ niệm 75 năm Ngày thành lập Đảng, Tổng thư Nông Đức  
Mạnh cũng yêu cầu phải phấn đấu để mỗi tổ chức đảng đoàn thể, mỗi cơ quan  
nhà nước đều "một tấm gương văn hóa trong xã hội".  
-
Nhắc lại các nghị quyết nói trên để thấy rõ tính bức bách của nhiệm vụ  
xây dựng văn hóa trong Đảng hiện nay; cũng để thấy rằng muốn xây dựng  
được tư tưởng, đạo đức, lối sống đời sống văn hóa lành mạnh trong xã hội,  
trước hết phải xây dựng được các phẩm chất đó trong các tổ chức của Đảng và  
bộ máy của Nhà nước...  
27  
-
Đối chiếu với tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, ta càng thấy rõ vai trò  
quan trọng biết dường nào của đạo đức cách mạng trong việc xây dựng nền văn  
hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc nói chung, và xây dựng văn hóa trong Đảng  
nói riêng. Không phải ngẫu nhiên trong Di chúc Người nói về Đảng đặc biệt  
nhấn mạnh vấn đề đạo đức: "Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và  
cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm,  
chính, chí công, vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là  
người lãnh đạo, người đày tớ thật trung thành của nhân dân".  
-
Những lời dạy của Bác Hồ về đạo đức cách mạng, đối với Đảng ta, đối  
với mỗi cán bộ, đảng viên, ngày nay vẫn còn mang tính thời sự nóng hổi; nhất là  
những phẩm chất trung với Đảng, trung với nước, hiếu với dân, về cần, kiệm,  
liêm, chính, chí công, vô tư, về nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ  
nghĩa cá nhân, về đảng viên đi trước, làng nước theo sau... là không bao giờ cũ.  
Nếu có cái gì gọi thì đó chính là nhận thức của chúng ta về các lời dạy của  
Bác không đến nơi, đến chốn, không thật đầy đnhuần nhuyễn, nhất là chúng  
ta nói mà không đi đôi với làm, hoặc nói nhiều làm ít, khiến cho đời sống văn  
hóa trong Đảng, nhất đời sống về đạo đức, những biểu hiện suy thoái  
nghiêm trọng. Cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị  
quyết Hội nghị Trung ương 6 (lần 2), khóa VIII, đòi hỏi phải khắc phục bằng  
được tình trạng suy thoái về tư tưởng, đạo đức lối sống trong cán bộ, đảng  
viên, đặc biệt là tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, một căn bệnh nguy  
hiểm đang đục khoét cơ thể sống của Đảng ta. Trong cuộc chiến đấu sinh tử này,  
mỗi cán bộ, đảng viên chúng ta càng phải đề cao trách nhiệm tu dưỡng thực  
hành tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.  
2.2.3) Tích cực và tiêu cực trong văn hóa đời sống (học sinh,sinh viên,..) hiện  
nay.  
28  
Thực trạng lối sống sinh viên hiện nay:  
Theo một cuộc điều tra mới nhất về giáo dục học tại thành phố Hồ Chí  
Minh cho thấy thực trạng hiện nay về lối sống sinh viên đó : tới 60% sinh  
viên sống khép mình, ít tham gia các hoạt động hội, 10% sinh viên hướng vào  
vui chơi, hưởng thụ chỉ có 30% sinh viên say mê học tập.  
-
Theo đó, những sinh viên có lối sống khép mình, ít tham gia các hoạt  
động hội những sinh viên quỹ thời gian sinh hoạt tập thể ít hay thiếu  
năng động trong các hoạt động hội, luôn bàng quang không hứng thú trước  
những sự kiện xảy ra xung quanh họ.  
-
Tiếp theo là những sinh viên hướng vào vui chơi, hưởng thụ, họ chỉ luôn  
tập trung vào những trò chơi mang tính giải trí, thiếu lành mạnh và vô bổ, ảnh  
hưởng trực tiếp đến sức khỏe, kết quả học tập sa sút hay luôn hướng đến phạm vi  
nhân cách mang tính tiêu cực.  
-
Cuối cùng là những sinh viên say mê, hăng hái trong học tập, tham gia  
các hoạt động mang tính tập thể, trách nhiệm luôn được đặt lên hàng đầu thông  
qua cách suy nghĩ, thái độ mang tính năng động, tích cực và có chí hướng.  
Những hoạt động của nhóm sinh viên này nhằm mục đích phát triển và hoàn  
thiện cá nhân như học thêm, làm thêm, đọc sách,đi thư viện. Đồng thời họ cũng  
thích xem biểu diễn nghệ thuật, tham gia vào các hoạt động hội, câu lạc bộ,  
các lễ hội truyền thống. Nhóm sinh viên này hướng những hoạt động của mình  
vào mục đích thỏa mãn nhu cầu phát triển cá nhân, đồng thời cũng những hoạt  
động hướng ngoại tích cực như hướng đến những nơi giao tiếp công cộng, đại  
chúng. Nơi họ đến và tham gia hoạt động những tổ chức hoạt động chính quy  
với mục đích lành mạnh.  
Theo kết quả nghiên cứu trên cho thấy : Thực trạng về lối sống sinh viên  
hiện nay mang tính tiêu cực nhiều hơn tích cực. Thiết nghĩ những biện pháp khắc  
29  
phục điều cần thiết cấp bách mà chính quyền địa phương, nhà trường, các  
tổ chức những bậc phụ huynh cần làm để sớm đưa sinh viên có suy nghĩ lầm  
lạc về con đường đúng đắn theo đúng tư tưởng triết lý mà Bác Hồ vĩ đại đã nêu  
rõ trong bộ môn Tư Tưởng Hồ Chí Minh.  
Dẫn chứng cho lối sống sinh viên hiện nay:  
Càng ngày càng có nhiều bạn trẻ trong đó không ít là sinh viên bị ám  
ảnh bởi quan niệm “trẻ không chơi, già hối hậnvà lao vào những cuộc chơi bạt  
mạng thâu đêm suốt sáng. Không phải họ đang tận dụng tuổi trẻ, họ đang liều  
lĩnh, phí phạm tuổi xuân thì đúng hơn.  
-
Cờ bạc, đề: Không phải hiện tượng mới lạ gì trong giới sinh viên  
mà tiêu biểu là các dịch vụ đề trá hình dưới hình thức là các quầy xổ số mọc  
lên xung quanh các trường khó kiểm soát được “cơn nghiện” của chính họ. Kết  
quả của những tháng ngày vui chơi từ một sinh viên đã trở thành “con nợ” với  
số tiền lên đến cả chục triệu.  
-
Uống rượu: Hiện tượng sinh viên uống rượu đã trở thành chuyện thường  
ngày ở huyện đối với nhiều người. Bất cứ một dịp nào: sinh nhật, lễ tết, ngày  
cuối tuần…, thậm chí là chả cần “nhân dịp“, các sinh viên cũng tụ tập nhậu nhẹt  
gần trường. Ai cũng biết uống nhiều như vậy sẽ cực hại đến lục phủ ngũ tạng  
nhưng tất cả đều phớt lờ và cho rằng “vui là chính, sức khỏe thứ yếu”. Thậm  
chí những khi “viêm màng túi”, nhiều sinh viên còn đi mua những loại rượu rẻ  
tiền chỉ vài nghìn/lít và đó loại “rượu ít cồn nhiều”. Uống những loại này, đầu  
đau như búa bổ, mắt nở hoa cà hoa cải vô cùng hại người. Biết thế, nhưng tất cả  
đều bỏ qua, chỉ cần lúc “trăm phần trăm” thấy vui là được. Mọi chuyện sau này  
đến đâu thì đến, chả cần quan tâm.  
30  

Tải về để xem bản đầy đủ

doc 34 trang yennguyen 02/06/2024 1090
Bạn đang xem 30 trang mẫu của tài liệu "Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • doctieu_luan_tu_tuong_ho_chi_minh_ve_van_hoa.doc