Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định chọn trường đại học của học sinh phổ thông trung học
TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH&CN, TẬP 12, SỐ 15 - 2009
CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN QUYẾT ĐỊNH CHỌN TRƯỜNG ĐẠI HỌC
CỦA HỌC SINH PHỔ THÔNG TRUNG HỌC.
Trần Văn Quí, Cao Hào Thi
Trường Đại học Bách khoa, ĐHQG-HCM
TÓM TẮT: Thực tế đã ghi nhận có không ít học sinh cuối cấp 3 ở Việt Nam chưa xác
định rõ ngành học và trường mình sẽ dự thi. Theo kết quả khảo sát của Báo Người Lao Động
trên 60% học sinh thừa nhận rằng mình không được hướng nghiệp khi chọn ngành nghề đăng
ký tuyến sinh đại học [1]. Vì vậy, mục tiêu của nghiên cứu là xác định, đánh giá tác động của
các yếu tố then chốt ảnh hưởng đến quyết định chọn trường đại học của học sinh trung học
phổ thông (THPT). Kết quả phân tích 227 bảng trả lời của học sinh lớp 12 năm học 2008-
2009 của 5 trường THPT tại Quảng Ngãi phản ánh cho thấy 5 yếu tố bao gồm yếu tố cơ hội
việc làm trong tương lai; yếu tố đặc điểm cố định của trường đại học; yếu tố về bản thân cá
nhân học sinh; yếu tố về cá nhân có ảnh hưởng đến quyết định của học sinh và yếu tố về thông
tin có sẵn ảnh hưởng đến quyết định chọn trường đại học. Kết quả phân tích hồi quy đa biến
đã khẳng định mối quan hệ giữa 5 yếu tố trên với quyết định chọn trường đại học của học
sinh THPT với các giả thuyết được ủng hộ ở mức ý nghĩa 5%. Từ kết quả nghiên cứu này, đề
xuất một số kiến nghị nhằm giúp đỡ gia đình, nhà trường và các tổ chức giáo dục có biện pháp
thiết thực nhằm định hướng có phương pháp và tạo điều kiện tốt nhất cho các học sinh THPT
lựa chọn trường một cách tốt nhất có thể
Từ khóa: yếu tố ảnh hưởng quyết định chọn trường, quyết định chọn trường đại học,
học sinh trung học phổ thông, Việt Nam.
nghiệp hàng năm, số thí sinh mỗi năm mỗi
1. GIỚI THIỆU
tăng cao [2]. Bên cạnh đó, theo thống kê
Theo thống kê gần đây mỗi năm có
của Bộ Giáo dục và đào tạo tháng 8 năm
khoảng 1,1 triệu học sinh dự thi tốt nghiệp
2006, có khoảng 37% sinh viên tốt nghiệp
THPT ở Việt Nam nhưng hệ thống các
nhưng không tìm được việc làm [3]. Kết
trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên
quả khảo sát của đề tài trọng điểm cấp Bộ
nghiệp chỉ có thể tiếp nhận khoảng 20%-
do ĐH Sư Phạm TP HCM cho thấy việc
30% số học sinh tốt nghiệp THPT. Tình
học tập không định hướng dẫn đến hơn
hình này dẫn đến áp lực hết sức nặng nề
50% sinh viên tốt nghiệp phải được đào tạo
cho các học sinh trong các kỳ thi tuyển
lại khi được tuyển dụng [4]. Việc định
sinh đại học, cao đẳng và trung học chuyên
Bản quyền thuộc ĐHQG-HCM
Trang 87
Science & Technology Development, Vol 12, No.15 - 2009
hướng như thế nào cho các công dân trẻ
tuổi này nhận thấy sự quan trọng của công
việc mình đã chọn, tương lai của họ sẽ như
thế nào với sự lựa chọn đó cũng như tạo ra
một lòng nhiệt tâm trong công việc là một
trong những vấn đề đã và đang tồn tại.
nhất là đặc điểm của gia đình và cá nhân
học sinh. Thứ hai là một số yếu tố bên
ngoài ảnh hưởng cụ thể như các cá nhân
ảnh hưởng, các đặc điểm cố định của
trường đại học và nỗ lực giao tiếp của
trường đại học với các học sinh.
Những câu hỏi lớn được đặt ra là học
sinh đã chọn ngành nghề cho mình như thế
nào? Họ dựa vào đâu để chọn trường đại
học cho mình? Để trả lời các câu hỏi này,
mục tiêu của đề tài nghiên cứu này sẽ xác
định, đánh giá mức độ ảnh hưởng của các
yếu tố then chốt ảnh hưởng đến quyết định
chọn trường đại học của học sinh THPT
vừa tốt nghiệp và từ đó giúp các trường
phổ thông hay các trường đại học, cao
đẳng, các tổ chức hỗ trợ cho học sinh, sinh
viên cũng như thầy cô, gia đình, bố mẹ có
biện pháp thiết thực nhằm định hướng và
tạo điều kiện tốt nhất cho học sinh THPT
lựa chọn trường đại học.
Bên cạnh đó, có rất nhiều nghiên cứu
khác sử dụng kết quả nghiên cứu của D.W.
Chapman [5] và phát triển trên những mô
hình khác để nghiên cứu các yếu tố ảnh
hưởng đến quyết định lựa chọn trường đại
học của học sinh. Cabera và La Nasa (được
bởi trích M. J. Burn [6]) đã nghiên cứu mô
hình 3 giai đoạn lựa chọn trường đại học
của học sinh dựa trên nền tảng của mô hình
chọn trường của D.W.Chapman [5] và K.
Freeman (được trích bởi M. J. Burn [6]) và
từ kết quả nghiên cứu, Cabera và La Nasa
nhấn mạnh rằng những mong đợi về công
việc trong tương lai của học sinh cũng là
một nhóm yếu tố quan trong tác động đến
quyết định lựa chọn trường đại học của học
sinh.
2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT, CÁC GIẢ
THUYẾT VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN
CỨU
M. J. Burn [6] đã ứng dụng các kết quả
từ các nghiên cứu của Chapman (1981) và
Cabera và La Nasa (2000) vào một trường
đại học cụ thể tại Mỹ một lần nữa khẳng
định các kết quả nêu trên, đó là mối quan
hệ giữa các nhóm yếu tố ảnh hưởng đến
quyết định chọn trường đại học của học
sinh.
2.1. Cơ sở lý thuyết
D.W.Chapman [5] đã đề nghị một mô
hình tổng quát của việc lựa chọn trường
đại học của các học sinh. Dựa vào kết quả
thống kê mô tả, ông cho thấy có 2 nhóm
yếu tố ảnh hưởng nhiều đến quyết định
chọn trường đại học của học sinh. Thứ
Tóm lại, tổng hợp các nhóm yếu tố ảnh
Bản quyền thuộc ĐHQG-HCM
Trang 88
TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH&CN, TẬP 12, SỐ 15 - 2009
hưởng đến quyết định lựa chọn trường đại
Bên cạnh đó, Hossler và Gallagher [7] còn
cho rằng ngoài bố mẹ, anh chị và bạn bè,
các cá nhân tại trường học cũng có ảnh
hưởng không nhỏ đến quyết định chọn
trường của học sinh. Xét trong điều kiện
giáo dục của Việt Nam, cá nhân có ảnh
hưởng lớn đến quyết định chọn trường của
học sinh chính là thầy cô của các học sinh.
học của học sinh đã được tổng quan ở trên
sẽ là cơ sở hình thành mô hình nghiên cứu
của đề tài này.
2.2. Các giả thuyết nghiên cứu
Căn cứ vào các nghiên cứu đã được
thực hiện trước đây, kết hợp với các yếu tố
đặc trưng của học sinh tại Việt Nam,
nghiên cứu đã đề xuất 7 giả thuyết với 32
yếu tố đại diện ảnh hưởng đến quyết định
chọn trường đại học của các học sinh.
Do vậy, gia đình, bố mẹ, anh chị, bạn
thân và các thầy cô phổ thông chính là
những nhân tố ảnh hưởng đến quyết định
của học sinh. Dựa vào nhóm yếu tố về cá
nhân ảnh hưởng này, giả thuyết H1 được
phát biểu như sau:
2.2.1. Yếu tố về cá nhân có ảnh hưởng
đến quyết định của học sinh.
Theo D.W.Chapman [5], trong việc lựa
chọn trường đại học, các học sinh bị tác
động mạnh mẽ bởi sự thuyết phục, khuyên
nhủ của bạn bè và gia đình của chính họ.
Sự ảnh hưởng của các cá nhân này đến các
học sinh có thể được thực hiện theo 3 cách
sau: (1) Ý kiến của họ ảnh hưởng đến
mong đợi về một trường đại học cụ thể nào
đó là như thế nào (2) Họ cũng có thể
khuyên trực tiếp về nơi mà học sinh nên
tham dự thi (3) Trong trường hợp là bạn
thân, thì chính nơi mà bạn thân dự thi cũng
ảnh hưởng đến quyết định chọn trường của
học sinh.
Giả thuyết H1: Sự định hướng của các
thân nhân của học sinh về việc dự thi vào
một trường đại học nào đó càng lớn, xu
hướng chọn trường đại học đó của học sinh
càng cao.
2.2.2. Yếu tố về đặc điểm của trường đại
học.
Trong nghiên cứu của mình,
D.W.Chapman [5] cho rằng các yếu tố cố
định của trường đại học như học phí, vị trí
địa lý, chính sách hỗ trợ về chi phí hay môi
trường ký túc xá sẽ có ảnh hưởng đến
quyết định chọn trường của học sinh.
M.J. Burns và các cộng sự [6] đã bổ
sung thêm một số các yếu tố về đặc điểm
của trường đại học có ảnh hưởng đến quyết
định chọn trường của học sinh. Cụ thể hơn,
yếu tố về học bổng, sự an toàn trong điều
Trang 89
Theo Hossler và Gallagher [7] một lần
nữa khẳng định ngoài sự ảnh hưởng mạnh
mẽ của bố mẹ, sự ảnh hưởng của bạn bè
cũng là một trong những ảnh hưởng mạnh
đến quyết định chọn trường của học sinh.
Bản quyền thuộc ĐHQG-HCM
Science & Technology Development, Vol 12, No.15 - 2009
kiện ký túc xá, chất lượng của sinh viên tại
trường, mức độ nổi tiếng và uy tín của
trường, tỷ lệ chọi đầu vào, điểm chuẩn của
trường và mức độ hấp dẫn của ngành học
sẽ là những yếu tố ảnh hưởng đến quyết
định chọn trường của học sinh.
trong tương lai
D.W.Chapman [5] và Cabrera và La
Nasa (được trích bởi M.J.Burns [6]) đều đã
khảo sát sự ảnh hưởng của sự mong đợi về
học tập trong tương lai đến quyết định
chọn trường của họ.
Dựa vào nhóm yếu tố về đặc điểm của
trường đại học, giả thuyết H2 được phát
biểu như sau:
Dựa trên cơ sở yếu tố mong đợi học
tập trong tương lai của các học sinh, giả
thuyết H4 được phát biểu như sau:
Giả thuyết H2: Đặc điểm của trường
đại học càng tốt, xu hướng lựa chọn trường
đại học đó càng cao.
Giả thuyết H4 : Cơ hội học tập trong
tương lai của học sinh ở một trường đại
học nào đó cao hơn những trường khác,
học sinh có khuynh hướng chọn trường đại
học đó nhiều hơn.
2.2.3. Yếu tố về bản thân cá nhân học
sinh
D.W.Chapman [5] cho rằng, các yếu tố
của tự thân cá nhân học sinh là một trong
những nhóm yếu tố ảnh hưởng lớn đến
quyết định chọn trường của bản thân họ.
Trong những yếu tố đó, yếu tố về năng lực
và sở thích của bản thân học sinh là 2 yếu
tố ảnh hưởng đến quyết định chọn trường
đại học rõ nhất.
2.2.5. Yếu tố về cơ hội việc làm trong
tương lai
Theo Cabera và La Nasa (được trích
bởi M.J.Burns [6]), ngoài mong đợi về học
tập trong tương lai thì mong đợi về công
việc trong tương lai cũng là một trong
những yếu tố ảnh hưởng đến quyết định
chọn trường của học sinh.
Dựa cơ sở trên 2 yếu tố năng lực và sở
thích của học sinh, giả thuyết H3 được
phát biểu như sau:
S.G.Washburn và các cộng sự [8] còn
cho rằng sự sẵn sàng của bản thân cho
công việc và cơ hội kiếm được việc làm
sau khi tốt nghiệp cũng là những yếu tố
ảnh hưởng đến quyết định chọn trường của
học sinh.
Giả thuyết H3: Sự phù hợp của ngành
học với khả năng học sinh hay với sở thích
của học sinh càng cao, học sinh sẽ có
khuynh hướng chọn trường đại học đó
càng lớn.
Từ những yếu tố trên dẫn đến giả
thuyết H5 được phát biểu như sau:
Giả thuyết H5: Tỷ lệ có việc làm hoặc
2.2.4. Yếu tố về cơ hội học tập cao hơn
Trang 90
Bản quyền thuộc ĐHQG-HCM
TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH&CN, TẬP 12, SỐ 15 - 2009
cơ hội có việc làm thu nhập cao của sinh
như Website hay các tài liệu in khác sẽ là
một hỗ trợ không nhỏ trong quyết định
chọn trường của học sinh.
viên sau khi tốt nghiệp của các ngành ở
một trường đại học nào đó cao hơn những
trường khác, học sinh chọn trường đại học
đó nhiều hơn.
Dựa trên các yếu tố về nỗ lực giao tiếp
của trường với học sinh như tham quan
trường, tham gia các buổi giới thiệu về
trường, giới thiệu học bổng, quảng cáo trên
báo, tạp chí hay TV và sự đầy đủ và chất
lượng của thông tin được cung cấp trong
các tài liệu có sẵn, giả thuyết H6 được phát
biểu như sau:
2.2.6. Yếu tố về nỗ lực giao tiếp với học
sinh của các trường đại học
D.W.Chapman [5] sau nghiên cứu của
mình cũng đặc biệt nhấn mạnh sự ảnh
hưởng của nỗ lực giao tiếp của các trường
với học sinh đến quyết định chọn trường
của các học sinh. Trong những nỗ lực ấy,
sự cải thiện hình ảnh của trường thông qua
các hoạt động giới thiệu, quảng bá hình
ảnh đến các học sinh; phát triển các chiến
lược thu hút học sinh như giới thiệu học
bổng, học bổng du học hay đăng quảng
cáo, lên tạp chí, TV hoặc thông qua các
hoạt động văn hóa, thể thao để lôi kéo sự
quan tâm của các học sinh và gia đình của
họ.
Giả thuyết H6: Sự nỗ lực trong giao
tiếp của một trường đại học với các học
sinh càng nhiều, học sinh sẽ chọn trường
đó nhiều hơn.
2.2.7. Yếu tố đặc trưng giới tính của học
sinh
Mô hình nghiên cứu của Ruth E. Kallio [9]
còn cho thấy rằng giới tính cũng có tác
động đến quyết định chọn trường. Mức độ
tác động của các nhóm yếu tố trực tiếp sẽ
bị ảnh hưởng không nhỏ của đặc trưng về
giới tính của học sinh. R.E.Kallio [9] cho
rằng giới tính khác nhau sẽ có mức độ tác
động gián tiếp khác nhau lên quyết định
lựa chọn trường đại học của học sinh.
Hossler và Gallagher [7] còn cho rằng
việc tham quan trực tiếp trường học hay
các buổi giới thiệu về trường cũng ảnh
hưởng đến quyết định chọn trường của học
sinh.
D.W.Chapman [5] còn cho rằng, các
tài liệu có sẵn cũng tác động đến quá trình
chọn trường của học sinh. Chọn trường là
một quyết định không đầy đủ thông tin của
học sinh. Vì thế, chất lượng thông tin và sự
sẵn sàng của thông tin trong tài liệu có sẵn
Bản quyền thuộc ĐHQG-HCM
Dựa trên yếu tố đặc trưng giới tính, giả
thuyết H7 được phát biểu như sau:
Giả thuyết H7: Quan hệ giữa đặc trưng
giới tính của học sinh với quyết định lựa
chọn trường đại học của học sinh là quan
Trang 91
Science & Technology Development, Vol 12, No.15 - 2009
hệ gián tiếp. Độ mạnh tác động của 6
nhóm yếu tố trên đến quyết định lựa chọn
trường đại học của học sinh sẽ chịu ảnh
hưởng bởi yếu tố đặc trưng về giới tính của
học sinh.
Mô hình nghiên cứu ở Hình 1 được đề xuất
với 7 giả thuyết từ H1 đến H7. Trong đó,
các nhóm yếu tố được giả thuyết từ H1 đến
H6 là các biến độc lập định lượng tác động
trực tiếp đến biến phụ thuộc là quyết định
chọn trường đại học của học sinh. Yếu tố
giới tính trong giả thuyết H7 là biến định
tính sẽ tác động gián tiếp lên mối quan hệ
giữa các biến độc lập nêu trên và biến phụ
thuộc trong mô hình.
2.3. Mô hình nghiên cứu
Dựa trên cơ sở 7 nhóm yếu tố ảnh hưởng
đến quyết định chọn trường đại học của
học sinh với 32 yếu tố đại diện nêu trên.
Hình 1.Mô hình nghiên cứu
tế xã hội và điều kiện giáo dục ở mức khá
phổ biến của các tỉnh thành trong cả nước.
Theo thống kê của Tổng cục Thống kê thì
trung bình từ năm 2001 đến 2007, hằng
năm Quảng Ngãi có 85% học sinh tốt
nghiệp THPT so với tỷ lệ trung bình 89%
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu chỉ bao gồm các
học sinh phổ thông trung học tại các
trường trung học tại tỉnh Quảng Ngãi bởi
Quảng Ngãi là một tỉnh có điều kiện kinh
Trang 92
Bản quyền thuộc ĐHQG-HCM
TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH&CN, TẬP 12, SỐ 15 - 2009
cả nước và khả năng triển khai khảo sát tại
sử dụng để thu thập dữ liệu. Thang đo
Likert với dãy giá trị 1÷5 được sử dụng để
đo lường cảm nhận của đối tượng khảo sát
về tác động của 6 nhóm yếu tố ảnh hưởng
đến quyết định chọn trường đại học của họ.
Riêng thang đo cho biến phụ thuộc quyết
định chọn trường đại học, trong nghiên cứu
này, thang đo cho sự lựa chọn trường đại
học sẽ là thang đo Likert 5 điểm tùy vào
mức độ mong muốn thi vào trường đại học
mà học sinh cho rằng mình hiểu rõ nhất
trong các trường có dự định thi. 1 điểm là
“chắc chắn không dự thi”, 2 điểm là
“không dự thi”, 3 điểm là “do dự”, 4 điểm
là “dự thi”, 5 điểm tức là mong muốn
“chắc chắn dự thi”.
các trường THPT tại tỉnh Quảng Ngãi lại
tương đối thuận lợi. Các học sinh ở tỉnh
này sẽ thực hiện đăng ký thi đại học năm
2009 vào thời gian tháng 1 và 2/2009 phù
hợp với thời gian thực hiện nghiên cứu 6
tháng từ tháng 1/2009 đến tháng 6/2009.
Nghiên cứu được tiến hành theo 2
bước, đầu tiên là nghiên cứu sơ bộ bằng
định tính rồi nghiên cứu chính thức bằng
định lượng. Thang đo và độ tin cậy của
biến quan sát được đánh giá bằng hệ số
Cronbach’s Alpha và phương pháp phân
tích nhân tố khám phá EFA (exploratory
factor analysis). Yêu cầu để thang đo được
chấp nhận là loại bỏ các biến số có tương
quan biến tổng (item-total correlation) nhỏ
hơn 0.3 và hệ số Cronbach Alpha nhỏ hơn
0.6. Bước cuối cùng là kiểm định mô hình
bằng phương pháp hồi quy đa biến với
mức ý nghĩa từ 5% -10%. Các phân tích
trên được thực hiện với sự hỗ trợ của phần
mềm SPSS.
Nguồn cung cấp dữ liệu gồm dữ liệu
thứ cấp và dữ liệu sơ cấp. Dữ liệu thứ cấp
tham khảo từ internet, tổng cục thống kê,
website của các trường đại học… nhằm
cung cấp các thông tin về tỷ lệ chọi, tỷ lệ
các học sinh tham gia thi, điểm chuẩn thi
các trường… Đối với dữ liệu sơ cấp, bảng
câu hỏi được gởi trực tiếp đến đối tượng
phỏng vấn tại 5 trường phổ thông tại các
huyện, thành phố tiêu biểu của tỉnh là
huyện Nghĩa Hành, huyện Tư Nghĩa,
huyện Sơn Tịnh và thành phố Quảng Ngãi.
Tỷ lệ hồi đáp trực tiếp là 37.8% tương ứng
có 227 phản hồi có giá trị trên số lượng gởi
là 600.
Theo Hair và các cộng sự [10] thì quy
luật tổng quát cho cỡ mẫu tối thiểu trong
phân tích nhân tố khám phá là gấp 5 lần số
biến quan sát và số lượng mẫu phù hợp cho
phân tích hồi quy đa biến cũng là gấp 5 lần
số biến quan sát. Mô hình nghiên cứu này
ước lượng có 30 biến quan sát như vậy
kích thước mẫu ước lượng tối thiểu sẽ là
150. Phương pháp lấy mẫu thuận tiện được
Bản quyền thuộc ĐHQG-HCM
Trang 93
Science & Technology Development, Vol 12, No.15 - 2009
4. CÁC KẾT QUẢ PHÂN TÍCH
THỐNG KÊ
quan với biến phụ thuộc với ý nghĩa ở mức
chấp nhận (p < 0.01 hoặc p < 0.05) và có
mức độ tương quan giữa các biến độc lập
trong cùng một nhóm với biến phụ thuộc
quyết định chọn trường đại học lớn hơn
0.3. Kết quả này chứng tỏ mức độ phù hợp
của các nhóm yếu tố này với công tác phân
tích nhân tố sẽ được thực hiện ở phần tiếp
theo.
4.1. Thống kê mô tả
Trong số 227 bảng khảo sát có giá trị,
đối tượng trả lời phỏng vấn là 89 học sinh
trường THPT chuyên Lê Khiết (39.2%), 75
học sinh trường THPT Trần Quốc Tuấn
(33%), 20 học sinh trường THPT Tư Nghĩa
I (8.8%), 25 học sinh trường THPT Sơn
Tịnh I (11%) và 18 học sinh trường THPT
Nghĩa Hành I (8%).
4.2. Phân tích nhân tố
Kết quả phân tích nhân tố được tổng
hợp và trình bày ở Bảng 1.
Trong tổng số 227 kết quả, có 132 nữ
chiếm 58.1% và 95 nam chiếm 41.9%
tham gia trả lời phỏng vấn. Các bạn học
sinh bắt đầu có sự lựa chọn trường đại học
dự định dự thi ở lớp 12 là 58.3%, từ lớp 11
là 16.7%, từ lớp 10 là 12.7% và trước lớp
10 là 12.3%. 66.7% và 33.3% là hai tỷ lệ
tương ứng cho sự lựa chọn trường đại học
công và trường đại học tư nhận được từ
227 kết quả khảo sát.
Mô hình nghiên cứu ban đầu có 6
nhóm định lượng (với 32 yếu tố) kỳ vọng
ảnh hưởng lên quyết định chọn trường đại
học của học sinh. Tuy nhiên khi đưa vào
phân tích nhân tố thì nhóm biến cơ hội học
tập cao hơn trong tương lai (bao gồm 2 yếu
tố) không có ý nghĩa về mặt thống kê nên
được loại bỏ khỏi phân tích nhân tố và mô
hình hồi quy tiếp sau.
Theo kết quả phân tích tương quan
giữa các biến độc lập và biến phụ thuộc thì
phần lớn các biến độc lập đều có tương
Trang 94
Bản quyền thuộc ĐHQG-HCM
TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH&CN, TẬP 12, SỐ 15 - 2009
Bảng 1. Kết quả phân tích nhân tố khám phá tổng hợp
Yếu tố
Trực
tiếp
Ý nghĩa
biến quan
sát
Cơ hội
việc
Đặc
điểm
Bản
thân
học
Cá
Uy tín
Thông
tin có
sẵn
Biến
nhân
trường
quan sát
làm
trường
đại học
tham
quan
có ảnh đại học
hưởng
sinh
DDTruong10 Mức độ hấp
0.61
dẫn ngành
cao
CongViec1
CongViec2
CongViec3
CongViec4
Sự sẵn sàng
của bản thân
Cơ hội kiềm
việc làm
0.61
0.60
0.77
0.71
Thu nhập
cao
Việc có vị
trí cao trong
xã hội
DDTruong5
Đạt học
0.65
bổng của
trường
DDTruong6
DDTruong7
DDTruong8
Hỗ trợ chi
phí
0.73
0.59
0.77
Tỷ lệ chọi
đầu vào
Điều kiện ký
túc xá
DDTruong9
YTCaNhan1
Điểm chuẩn
Khả năng
của học sinh
Sở thích của
học sinh
0.80
0.81
YTCaNhan2
NoLuc1
0.55
Tham quan
trực tiếp
0.64
Bản quyền thuộc ĐHQG-HCM
Trang 95
Science & Technology Development, Vol 12, No.15 - 2009
trường
NoLuc7
NoLuc8
Tham dự sự
kiện văn
0.77
0.75
hóa, thể thao
của trường
Tham dự
buổi giới
thiệu học
bổng
CaNhanAH2 Bạn bè
CaNhanAH4 Thầy cô
CaNhanAH5 Anh chị
0.69
0.71
0.74
DDTruong1
Trường nổi
0.81
0.82
tiếng
DDTruong3
Sinh viên
của trường
là nổi tiếng
Website của
trường
NoLuc2
0.81
0.85
NoLuc3
Hướng dẫn
tuyến sinh
Eigenvalues
3.84
17.47
17.47
2.25
10.21
27.67
1.91
8.69
1.56
7.09
1.49
6.76
1.27
5.77
1.16
5.28
Variance explained %
Cumulative variance
explained %
36.37
43.45
50.21
55.98
61.26
tiếp của trường đại học với học sinh được
tách ra thành làm hai nhân tố. Các giá trị
Eigenvalues đều lớn hơn 1 và độ biến thiên
được giải thích tích lũy là 61.26% cho biết
7 nhóm nhân tố nêu trên giải thích được
61.26% biến thiên của các biến quan sát.
Kết quả phân tích nhân tố cho 5 nhóm
định lượng còn lại (gồm 30 yếu tố) được
tổng hợp và trình bày ở Bảng 1 với những
biến quan sát có trọng số nhỏ hơn 0.45 bị
loại còn lại 22 yếu tố thành phần trích
thành 7 nhóm, trong đó 2 nhóm yếu tố về
đặc điểm của trường đại học và nỗ lực giao
4.3. Hồi quy đa biến
Trang 96
Bản quyền thuộc ĐHQG-HCM
TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH&CN, TẬP 12, SỐ 15 - 2009
Nghiên cứu đã phát triển được 2 mô
hình hồi quy.
Sự tác động gián tiếp của yếu tố giới
tính cũng được xét đến trong quá trình
chạy hồi quy. Cụ thể trong nghiên cứu này,
biến giới tính của học sinh được đưa vào
Mô hình 2 cùng với các biến tương tác
giữa biến giới tính của học sinh và 2 nhân
tố gồm nhóm các yếu tố về cơ hội việc làm
trong tương lai và nhóm các yếu tố về cá
nhân có ảnh hưởng đến quyết định của học
sinh .
Mô hình 1 bao gồm 7 nhân tố ảnh
hưởng thu được từ phần phân tích khám
phá ở trên bao gồm nhân tố về cơ hội việc
làm trong tương lai; nhân tố về đặc điểm
cố định của trường đại học; nhân tố về bản
thân cá nhân học sinh; nhân tố trực tiếp
tham quan, tìm hiểu thông tin; nhân tố về
cá nhân có ảnh hưởng đến quyết định của
học sinh; nhân tố về uy tín, sự nổi tiếng
của trường đại học và nhân tố về thông tin
có sẵn về trường đại học.
Kết quả phân tích hồi quy của 2 mô
hình nói trên được trình bày tóm tắt ở Bảng
2.
Bảng 2. Kết quả phân tích hồi quy đa biến
Biến
Mô hình 1
Mô hình 2
Biến độc lập:
0.25***
0.11***
0.25***
0.05
0.33***
0.12***
0.24***
0.07
Yếu tố cơ hội việc làm trong tương lai
Yếu tố đặc điểm cố định của trường đại học
Yếu tố bản thân cá nhân học sinh
Yếu tố trực tiếp tham quan, tìm hiểu thông tin tại trường đại
Yếu tố các cá nhân có ảnh hưởng đến quyết định của học
Yếu tố uy tín, sự nổi tiếng của trường đại học
Yếu tố thông tin có sẵn về trường đại học
0.10**
0.06
0.17***
0.06
0.29***
0.29***
Biến định tính:
Giới tính của học sinh
Biến tương tác:
0.06
-0.12*
-0.12*
Giới tính * Yếu tố cơ hội việc làm trong tương lai
Giới tính * Yếu tố cá nhân có ảnh hưởng đến quyết định của
R2-value
23.20%
20.07%
25.00%
21.50%
Adjusted R2-value
*** Có ý nghĩa thống kê ở mức 0.01
** Có ý nghĩa thống kê ở mức 0.05
*
Có ý nghĩa thống kê ở mức 0.10
Bản quyền thuộc ĐHQG-HCM
Trang 97
Science & Technology Development, Vol 12, No.15 - 2009
Kết quả có được trong Mô hình 1 là 5
trong 7 nhân tố được trích trong phân tích
nhân tố bao gồm nhân tố về cơ hội việc
làm trong tương lai; nhân tố về đặc điểm
cố định của trường đại học; nhân tố về bản
thân cá nhân học sinh; nhân tố về cá nhân
có ảnh hưởng đến quyết định của học sinh
và nhân tố về thông tin có sẵn về trường
đại học có quan hệ đồng biến với biến lựa
chọn trường đại học của học sinh tương
ứng với các hệ số hồi quy có giá trị dương.
Điều này phù hợp với các giả thuyết của
mô hình.
thích đến 21.5% cho tổng thể sự liên hệ
của 5 nhóm yếu tố bao gồm nhân tố về cơ
hội việc làm trong tương lai; nhân tố về
đặc điểm cố định của trường đại học; nhân
tố về bản thân cá nhân học sinh; nhân tố về
cá nhân có ảnh hưởng đến quyết định của
học sinh và nhân tố về thông tin có sẵn về
trường đại học với biến lựa chọn trường
đại học của học sinh và 2 biến tương tác
sinh ra từ sự kết hợp của biến giới tính của
học sinh với 2 nhân tố về cơ hội việc làm
trong tương lai và nhân tố về cá nhân có
ảnh hưởng đến quyết định của học sinh .
Kết quả của Mô hình 2 cho thấy 5 biến
có ý nghĩa ở Mô hình 1 cũng có ý nghĩa
trong Mô hình 2, tuy nhiên biến giới tính
của học sinh không tác động trực tiếp đến
quyết định lựa chọn trường của học sinh.
Trong khi đó 2 biến tương tác mới thêm
vào có quan hệ nghịch biến với biến chọn
trường đại học của học sinh nhưng chỉ có ý
nghĩa thống kê ở mức 10%.
Và các hệ số hồi quy còn cho thấy 3
trong 5 nhân tố ảnh hưởng này có mức tác
động lớn nhất đến quyết định lựa chọn
trường đại học, cụ thể là nhân tố về cơ hội
việc làm trong tương lai; nhân tố về bản
thân cá nhân học sinh và nhân tố về thông
tin có sẵn về trường đại học.
5. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ VÀ GIỚI
HẠN CỦA NGHIÊN CỨU
Khi đưa thêm biến vào phương trình
hồi quy ở Mô hình 2, hệ số R2 có hiệu
chỉnh thay đổi tăng nhưng không đáng kể,
cụ thể là 21.5% ở Mô hình 2 so với Mô
hình 1 là 20.07%. Điều này cho thấy Mô
hình 2 giải thích tổng thể tốt hơn Mô hình
1 với một khác biệt không đáng kể.
5.1.Kết luận
Nghiên cứu đã xây dựng và kiểm
chứng mô hình các yếu tố ảnh hưởng đến
quyết định chọn trường đại học của học
sinh với 5 nhân tố đại diện theo mức độ
ảnh hưởng từ mạnh đến yếu là nhân tố về
cơ hội việc làm trong tương lai; nhân tố về
thông tin có sẵn về trường đại học; nhân tố
về bản thân cá nhân học sinh; nhân tố về cá
Theo các phân tích trên đây, kết quả từ
Mô hình 2 sẽ được chọn. Giá trị R2 của mô
hình này cho biết rằng mô hình có thể giải
Trang 98
Bản quyền thuộc ĐHQG-HCM
TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH&CN, TẬP 12, SỐ 15 - 2009
nhân có ảnh hưởng đến quyết định của học
quyết định của học sinh trong trường hợp
học sinh Nam sẽ yếu hơn trong trường hợp
học sinh Nữ.
sinh và nhân tố về đặc điểm cố định của
trường đại học.
Mô hình nghiên cứu giải thích được
21.5% cho tổng thể về mối liên hệ của 5
nhân tố trên với biến lựa chọn trường đại
học của học sinh và đồng thời khẳng định
mối quan hệ đồng biến giữa 5 nhân tố này
với biến lựa chọn trường đại học. Điều đó
có nghĩa là khi cơ hội việc làm trong tương
lai, đặc điểm cố định của trường đại học
càng tốt, năng lực của học sinh càng cao,
gia đình và các cá nhân có ảnh hưởng động
viên, khuyến khích và cho lời khuyên càng
giá trị và chất lượng thông tin có sẵn càng
tốt thì quyết định chọn trường của các học
sinh càng có chất lượng.
5.2. Kiến nghị
Dựa trên kết quả nghiên cứu, một số
kiến nghị đề xuất được đề ra căn cứ vào 2
nhân tố có ảnh hưởng mạnh nhất trong mô
hình và có ý nghĩa về mặt quản lý như sau:
Thông tin về trường đại học, ngành
nghề thi hay những đặc điểm cố định khác
của trường đại học là một trong những
nhóm yếu tố ảnh hưởng đến quyết định thi
của học sinh. Tuy nhiên, thực tế ghi nhận
rằng nhiều bạn học sinh khi muốn tham
khảo thông tin về ngành thi hay các trường
mà mình có dự định dự thi nhưng hầu các
thông tin có sẵn thường chỉ là tập hướng
dẫn tuyển sinh hàng năm với thông tin
ngắn gọn, thiên về hướng dẫn đăng ký
nhiều hơn. Các website của các trường đại
học được xây dựng lên nhưng hầu như
không cung cấp nhiều thông tin cho các
bạn học sinh khi cần tham khảo. Các thông
tin về các đặc điểm về các trường đại học
thì đôi khi được báo chí đề cập đến nhưng
không đầy đủ và không hệ thống. Vì thế,
các trường đại học cao đẳng khi muốn hấp
dẫn nhiều học sinh dự thi hơn hay muốn
nâng cao vị thế, uy tín bằng chất lượng học
sinh đầu vào thì nên bắt tay vào xây dựng
hệ thống cung cấp thông tin cho riêng
mình, cụ thể hơn như nâng cấp website với
Trang 99
Với kết quả từ Mô hình 2 trong phân
tích hồi quy đa biến, 2 biến tương tác có ý
nghĩa ở mức 10% cũng cho thấy tác động
gián tiếp của biến giới tính đến các biến
nhân tố về cơ hội việc làm trong tương lai
và nhân tố về cá nhân có ảnh hưởng đến
quyết định của học sinh. Sự tác động gián
tiếp này thể hiện mối quan hệ nghịch biến
giữa 2 biến tương tác với biến lựa chọn
trường đại học. Với giá trị mã hóa biến
giới tính là Nam = 1, Nữ = 0, thì điều đó
có nghĩa là khi ra quyết định chọn trường
đại học thì ảnh hưởng của 2 nhân tố gồm
nhân tố về cơ hội việc làm trong tương lai
và nhân tố về cá nhân có ảnh hưởng đến
Bản quyền thuộc ĐHQG-HCM
Science & Technology Development, Vol 12, No.15 - 2009
nhiều thông tin hơn cho đối tượng học sinh
muốn dự thi, phát triển tập san giới thiệu
về ngành nghề mà trường đào tạo, giới
thiệu cơ hội học bổng cũng như du học tại
trường cũng như điều kiện ký túc xá hay
các hỗ trợ về chi phí hiện tại và đồng thời
cũng thống kê qua nhiều năm về tỷ lệ chọi,
điểm chuẩn hay các tỷ lệ khác về đầu ra
như tỷ lệ tốt nghiệp, tỷ lệ có việc làm của
các sinh viên tốt nghiệp.
ngành mà họ đã chọn, lắng nghe các
chuyên viên tư vấn giải thích về các ngành
học hay tự tham khảo thông tin nghề
nghiệp khi thấy cần trên các phương tiện
sẵn có như tạp chí, tập san hay website là
một trong những cách cung cấp thông tin
tốt nhất để các em học sinh có một lựa
chọn nghề nghiệp phù hợp với khả năng,
sở thích của mình.
Kết quả thống kê mô tả của nghiên cứu
này, cho thấy 75% các em học sinh bắt đầu
lựa chọn trường từ lớp 11, 12. Điều đó
chứng tỏ công tác hướng nghiệp còn ngắn
hạn và chưa có chất lượng. Hướng nghiệp
như thế nào? Khi nào cần hướng nghiệp?
và ai là người có trách nhiệm hướng
nghiệp? Đó là những câu hỏi đặt ra trong
công tác hướng nghiệp. Các trường thường
tổ chức các buổi hướng nghiệp mà chính
xác hơn là các buổi hướng dẫn tuyển sinh
nhằm giải thích cách đăng ký, giải thích
các thắc mắc khi lựa chọn ngành khi đăng
ký hơn là giúp đỡ các em có nhiều kiến
thức hơn khi ra quyết định lựa chọn. Việc
hướng nghiệp nên được xây dựng tổ chức
và tiến hành trong suốt quá trình học tập
hơn là chỉ tổ chức vào cuối cấp 3. Như vậy
bên cạnh trách nhiệm về xây dựng lực
lượng giáo viên có trình độ về hướng
nghiệp của bộ giáo dục thì các trường cũng
nên đưa hướng nghiệp như là một môn học
vào trong chương trình đào tạo hay xem
Bên cạnh đó, việc làm và cơ hội việc
làm trong tương lai là một trong những yếu
tố có ảnh hưởng lớn đến quyết định chọn
trường của học sinh THPT. Thế nhưng khi
hỏi các học sinh rằng các em muốn thi
trường nào và nghề gì các em mong muốn
theo đuổi trong tương lai? Câu trả lời
thường nhận được thường nhận được là
trường mà các em muốn thi còn về ngành
nghề mà các em chọn thường không được
trả lời. Không chỉ với các học sinh mà
ngay cả với các thầy cô, bố mẹ cũng rất
thiếu thông tin về nghề nghiệp khi học trò,
con em mình muốn được tư vấn. Vì thế,
xây dựng thông tin đầy đủ về các ngành
nghề nhằm cung cấp thông tin nhiều chiều
cho các học sinh hoặc tạo điều kiện để các
học sinh được tham khảo, lắng nghe tỉ mỉ
về ngành học là trách nhiệm của ngành
giáo dục, của các trường phổ thông, đại
học, cao đẳng. Tạo điều kiện để các em
được lắng nghe các anh chị đi trước nói về
Trang 100
Bản quyền thuộc ĐHQG-HCM
TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH&CN, TẬP 12, SỐ 15 - 2009
hướng nghiệp là một trong những tiêu chí
đề nghiên cứu ở mức độ 21.5% khi nhân
rộng ra tổng thể. Nguyên nhân có thể do
kích thước mẫu còn nhỏ so với quy mô
nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu còn hẹp
do chỉ lấy mẫu ở khu vực tỉnh Quảng Ngãi
và nhiều yếu tố chưa được đưa vào khảo
sát trong nghiên cứu này. Việc triển khai
nghiên cứu với mẫu tổng quát hơn là
hướng mở ra cho các nghiên cứu tiếp theo
về lĩnh vực nghiên cứu giáo dục.
hàng đầu trong giáo dục.
5.3. Giới hạn của nghiên cứu
Hạn chế thuộc về mẫu nghiên cứu
được chọn theo phương pháp thuận tiện,
dữ liệu thu thập được có thể bị ảnh hưởng
một phần bởi mẫu chưa mang ý nghĩa tổng
quát cao khi chỉ thực hiện tại 5 trường
THPT tại Quảng Ngãi.
Mô hình chỉ mới giải thích được vấn
FACTORS INFLUENCING THE UNIVERCITY CHOICE DECISIONS OF
HIGH SCHOOL STUDENTS
Tran Van Qui, Cao Hao Thi
University of Technology, VNU-HCM
ABSTRACT: In reality, there are many high school students who do not determine
exactly the career and the university which they want to attend. As the result of an investigate
of Nguoi Lao Dong newspaper, over 60 percents of students admit that they had not have good
vocational guidance when they registered to the university [1]. Therefore, a conceptual model
of factors influencing students' college choice was developed to indentify the key factors and to
evaluate the level of influence of these factors on high school students' university choice
decisions. The result of 227 valid questionares from grade 12 students, school year 2008-2009
at 5 high schools at Quang Ngai province indicated 5 main factors influencing to the students'
college choice including factors on future occupation opportunity; factors on information
available; factors on student characteristics; factors on fixed college characteristisc and
factors significant persons. The result of multiple linear regression model confirmed the
relationship between these five factors above and the high school students' university choice
decisions with the theories are supported at the statistically significant level of 0.05. And from
this result, proposing motions to help families, schools and education organizations have
practical approaches in order to well orient create good conditions for high school students to
Bản quyền thuộc ĐHQG-HCM
Trang 101
Science & Technology Development, Vol 12, No.15 - 2009
have the best university choices.
Keywords: factors influencing college choice; college choice; high school students;
VietNam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Người Lao Động online. Trên 64% người tìm việc không xác định mục tiêu nghề nghiệp
(18.08.2005).
[2]. Nguyễn Phi Yến. Hành vi chọn ngành thi đại học của học sinh lớp 12, Luận văn tốt
nghiệp đại học, Đại học An Giang (6/2006).
[3]. VnExpress online. 37% sinh viên tốt nghiệp không tìm được việc (25.8.2006).
[4]. VnExpress online. Hơn 50% sinh viên tốt nghiệp phải đào tạo lại (6.1.2008).
[5]. Chapman, D. W. A model of student college choice. The Journal of Higher Education,
52(5), 490-505 (1981).
[6]. Marvin J. Burns. Factors influencing the college choice of african-american students
admitted to the college of agriculture, food and natural resources. A Thesis presented to
the Faculty of the Graduate School. University of Missouri-Columbia (2006).
[7]. Hossler, D. and Gallagher, K. Studying college choice: A three-phase model and
implications for policy makers. College and University, Vol 2 207-21 (1987).
[8]. Shannon G. Washburn, Bryan L. Garton and Paul R. Vaughn. Factors Influencing
College Choice of Agriculture Students College-Wide Compared with Students
Majoring in Agricultural Education. University of Florida (2000).
[9]. Ruth E. Kallio, Factors influencing the college choice decisions of graduate students.
Research in Higher Education, Vol. 36, No. 1 (1995).
[10]. J.F. Hair, R.E. Anderson, R.L. Tatham and William C. Black (1998). Multivariate Data
Analysis, Fifth Edition. Prentice-Hall Intenational, Inc.
Trang 102
Bản quyền thuộc ĐHQG-HCM
Bạn đang xem tài liệu "Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định chọn trường đại học của học sinh phổ thông trung học", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- cac_yeu_to_anh_huong_den_quyet_dinh_chon_truong_dai_hoc_cua.pdf