Đề tài Hóa phóng xạ và phép đo sự phóng xạ

----------  
ĐỀ TÀI  
HÓA PHÓNG XẠ VÀ PHÉP ĐO SỰ  
PHÓNG XẠ  
Giáo viên hướng dẫn  
Họ tên sinh viên  
:
:
----------  
1
MỤC LỤC  
2
PHẦN MỘT  
  
Nhóm 6 : Võ Thị Dưỡng  
Tôn Nữ Thuỳ My  
Nguyễn Minh Hằng  
Phan Thị Thuỳ Giang  
Nguyễn Thanh Tùng  
3
HÓA PHÓNG XẠ VÀ PHÉP ĐO SỰ PHÓNG XẠ  
Hóa phóng xạ trong phép phân tích sự kích hoạt phóng xạ một chủ đề gây  
tranh luận đáng kể. Hóa phóng xạ được định nghĩa sự áp dụng hóa học để nghiên  
cứu sự phóng xạ. Với một nhà hóa học hạt nhân thì có thể xem phép phân tích kích  
hoạt như sự ứng dụng của hóa phóng xạ. Còn đối với những người khác, không  
phải nhà hóa học, tiến hành phép phân tích bằng sự phóng xạ và phép đo bức xạ có  
thể coi phép phân tích kích hoạt một dạng của phép phân tích dụng cụ. Trong  
phương pháp sau, việc xác định một nguyên tố phóng xạ là dùng đường đặc trưng  
phóng xạ của đồng vị phóng xạ với nó.  
Một số thuận lợi của phép phân tích kích hoạt sử dụng được ngay và thực  
hiện một cách khá chính xác với bất sự xử lí hóa học nào của vật mẫu trước khi  
chiếu xạ. Trong một vài trường hợp sự cách ly của nguyên tố phóng xạ cần thiết.  
Trong hóa phóng xạ, phép phân tích kích hoạt thường bao hàm luôn việc cách ly  
của nguyên tố phóng xạ bằng sự phân ly hóa học. Tuy nhiên, trong một vài trường  
hợp, với sự cách ly hóa học, phép trắc phổ phóng xạ cần thiết để đo từng đồng vị  
phóng xạ. Vậy vấn đề của hóa phóng xạ trong phép phân tích kích hoạt là có nên sử  
dụng hóa phóng xạ hay hạn chế, cái gì là tốt nhất cho sự khớp của việc xmẫu, cả  
hóa học dụng cụ, chúng sẽ đưa đến sự xác định thích hợp ở mức độ chính xác  
với độ chính xác cao. Hai phương pháp này bổ sung cho nhau; hóa phân tích làm  
phép đo phóng xạ dễ dàng hơn (trong một vài trường hợp việc khử cần cho phổ  
phóng xạ) ngược lại phổ phóng xạ làm cho độ tinh khiết hóa học bớt khó khăn  
(trong một số trường hợp việc khử cần cho một vài hoặc bất xử lý hóa học).  
Đó điều hiển nhiên, ví dụ với phép đo thông lượng neutron nhiệt bằng việc  
kích hoạt một lá vàng nguyên chất thì không cần tới việc xử để đo hoạt độ của  
một sản phẩm duy nhất 198Au. Trong phương pháp khác, phép phân tích kích hoạt  
cho các nguyên tố trong phạm vi của độ nhạy mặt trong ma trận dễ được kích  
hoạt sự phóng xạ quan tâm bị che mờ đi trong sự nhạy của phổ kế phóng xạ cần  
đến khả năng phân ly hóa học với độ tinh chế cao và có thể đo trong bộ đếm phóng  
xạ phông thấp. Giữa các cực trị thì các phép phân tích kích hoạt thể được thực  
4
hiện bằng sự phân ly hóa học đơn giản và các phép đo phóng xạ thông thường. Sự  
phân ly hóa học đơn giản thể việc loại bỏ một trạng thái của nguyên tố quan  
tâm hoặc thể việc loại bỏ một số lớn các nhân phóng xạ không quan tâm.  
Thông thường với bất vấn đề nào, sự khảo sát cơ bản trong việc ước lượng sự  
quan trọng giữa hóa phân tích và phân tích dụng cụ thì mức độ của độ nhạy cần  
thiết độ chính xác mong muốn (hoặc độ phân giải của tính không đơn trị) của sự  
nhận biết nhân phóng xạ việc lấy mẫu.  
6.1. Khảo sát đại cương  
Phép phân tích hóa phóng xạ thể tính toán tới việc xác định định tính cũng  
như định lượng của hạt nhân phóng xạ bằng phép phân tích hóa học và phép đo  
phóng xạ. Nó khác với phép phân tích hóa cổ điển khối lượng của hạt nhân phóng  
xạ tìm thấy thông thường không cân được và nó không chỉ chứa một lượng lớn vật  
liệu ban đầu mà còn có một vài hạt nhân khác.  
Việc xác định hạt nhân phóng xạ trong nguồn chứa các hạt nhân phóng xạ  
khác thì thường thực hiện được bằng việc chọn một phương pháp có hiệu quả của  
phép đo phóng xạ. Các phép đo này thường thực hiện được với độ chính xác cao.  
Tuy nhiên, trừ trường hợp chiếu bức xạ neutron nhiệt vào một đồng vị của nguyên  
tố ổn định, sự kích hoạt phóng xạ trong vật mẫu đó chứa hỗn hợp hạt nhân phóng  
xạ. Việc xác định hạt nhân phóng xạ cần nhận biết tính chất một cách chính xác và  
lựa chọn phép đo định lượng đặc biệt. Phổ năng lượng một trong những phương  
pháp đó.  
Nếu trong vật liệu ban đầu chứa hạt nhân phóng xạ ít hoạt động với một số  
nguyên tố hoạt động thì việc xác định thường thực hiện hai bước sau:  
1. Sự phân ly nguyên tố hóa học của hạt nhân phóng xạ.  
2. Việc xác định đồng vị phóng xạ của nguyên tố bằng cách chọn phép đo  
phóng xạ.  
Đầu tiên là việc làm sạch một cách cẩn thận đến độ tinh khiết cao của nguyên  
tố hoặc đơn giản hơn là phân ly nhanh nhóm nguyên tố có tính chất hóa học tương  
tự. Sau đó thể đo hoạt độ phóng xạ trong một máy đếm đơn giản, việc đo hoạt độ  
 
5
phóng xạ mức thấp bằng máy đếm phông thấp hoặc phân tích phổ năng lượng của  
tia gamma. Tổng hợp một cách khách quan thì việc đo phóng xạ từ nhân phóng xạ  
với sự mặt của bức xạ từ hạt nhân phóng xạ số đếm phông.  
Hóa phóng xạ áp dụng phép phân tích hoạt độ phóng xạ, dùng tất cả các  
phương pháp riêng của hóa phân tích. Tuy nhiên, với những hạt nhân phóng xạ có  
khối lượng nhỏ trong vật mẫu số đếm thay đổi. Đó không chỉ việc điều khiển  
ngăn sự phân tích trọng lượng mà còn là giữ nguyên vẹn vật mẫu gây nguy hiểm  
bởi thể mất nhân phóng xạ vào thành của hộp chứa hoặc vào vật liệu khác. Sau  
đó tách riêng các tia phóng xạ trong sản phẩm phóng xạ không phải đồng vị của  
nguyên tố bia. Đó là lí do mà hóa phóng xạ trong phép phân tích phóng xạ thường  
sử dụng phương pháp chất tải, đây sự lựa chọn một lượng nguyên tố đồng vị có  
thể cân được để thêm vào với hạt nhân phóng xạ sau khi chiếu xạ. Phương pháp hạt  
tải của hóa phóng xạ thường cần các bước sau:  
1. Lấy mẫu.  
2. Xử trước khi chiếu xạ (nếu cần thiết).  
3. Chuẩn bị cho việc chiếu xạ.  
4. Sự phân hủy của vật mẫu bị chiếu xạ.  
5. Việc thêm hạt tải.  
6. Phân tích hóa học.  
7. Tính toán chất pha chế.  
6.1.1. Xử trước khi chiếu xạ  
Lấy mẫu  
Một trong những yêu cầu cơ bản trong hóa phân tích là vật mẫu phải đặc trưng  
cho vật liệu chứa nguyên tố tìm kiếm. Yêu cầu này là đặc biệt quan trọng trong  
việc ứng dụng vật chất hỗn hợp dạng rắn, mà trong đó sự phân bố kích  
thước phần tử hoặc vật chất kết tinh có chứa miền giới hạn. Một vật mẫu “grab”  
được lấy với giả định rằng vật liệu đồng nhất, chì có thể dùng để xác định cho sự  
tập trung của một ít nguyên tố thì chính xác nhưng không đặc trưng.  
 
6
Kỹ thuật lấy mẫu đã được phát triển đáng kể ở khía cạnh nào đó. Quá trình lấy  
mẫu chuẩn đã được phát triển cho hầu hết các vật liệu. Việc thu mẫu cho phép phân  
tích thì thay đổi với các vật liệu khác nhau và với từng trạng thái khác nhau của một  
số vật liệu nhưng thường gồm ba điều kiện sau:  
1. Lấy một vật mẫu thực nghiệm từ nguồn vật liệu  
2. Lấy các vật mẫu thật cho các phép phân tích từ vật mẫu thực nghiệm  
3. Kiểm tra các mẫu thật trước khi đem cân.  
Việc đồng nhất của nguồn vật liệu là nhân tố cơ bản trong điều kiện đủ của vật  
mẫu thực nghiệm. Nếu nguồn vật liệu không hoàn toàn đồng nhất, phạm vi chú ý có  
thể bị giới hạn trong mẫu thực nghiệm. Ngay cả sự chú ý lớn nhất được sau khi  
ước lượng mẫu thực nghiệm trong mẫu thử cho phép phân tích. Sự nghiền, sự phân  
hủy và các tính chất khác để tăng dần sự đồng nhất thể cho kết quả trong sự làm  
bẩn của vật mẫu bởi các nguyên tố tìm thấy.  
Khối lượng của các mẫu thử thì cần đến một sự cân nhắc cho việc xử mẫu.  
Một số vật mẫu thể được cân như vậy. Số khác thì có thể chứa lượng nước thay  
đổi được sấy ở 105-1100C trước khi đem cân hoặc việc xác định hơi nước thể  
được thực hiên để biến đổi việc đo sự cạn từ cách thức trên để sấy khô. Nếu tính  
chất hóa học kết hợp nước được loại bỏ trong việc sấy khô, vật mẫu thể cần đến  
sự bốc cháy ở nhiệt độ cao để thu được mẫu với thành phần cấu tạo xác định. Sự  
hấp thụ CO2 và các khí khác bằng mẫu tinh mặt đất cũng cần được quan tâm.  
Số lượng vật mẫu tái tạo thì phụ thuộc nhiều vào mức độ của sự cạn độ  
chính xác mong muốn. Trong một số bản sao các thành phần thử thì được làm từ hai  
mẫu; trong các phần tử thử đơn lẻ khác thì được làm từ ba mẫu. Thông thường, độ  
sai sót trong việc lấy mẫu phải thích hợp với độ sai sót trong tất cả các phép phân  
tích trên.  
Xử lý hóa học trước khi chiếu xạ  
Đây gần như là tiên đề trong phép phân tích kích hoạt việc xử lí hóa học  
cho một mẫu nhỏ trước khi chiếu xạ tuyệt đối bắt buộc. Vấn đề phải giải quyết ở  
đây khả năng nhiễm bẩn bởi việc thêm lượng dư thuốc thử để đánh dấu sự cạn  
7
của nguyên tố quan tâm trong các mẫu thì dễ dàng nhận thấy. Đây cũng chính là lí  
do mà việc xử lí hóa học trước khi chiếu xạ rất cần thiết.  
1. Các mẫu quá lớn để chiếu xạ trong khi sự cạn cho lượng nhỏ mẫu chứa  
quá ít các nguyên tố quan tâm. Việc biến đổi với số lượng lớn hoặc biến đổi về  
thể tích là rất cần thiết. Vật mẫu thể bị tan hoặc phân rã và được đặc bằng  
sự bay hơi hay bởi các điều kiện hóa học.  
2. Các mẫu mà không đồng nhất để đạt được mẫu tiêu biểu cho việc chiếu xạ  
thì việc xử để thu được mẫu đồng nhất thể làm được nhờ máy móc hoặc hóa  
chất.  
3. Các mẫu mà có chứa nhiều thành phần của sự hoạt hóa mà các nguồn phóng  
xạ chứa mức độ nguy hiểm cho sự phóng xạ, hóa phân tích cho số lượng lớn thì  
rất cần thiết trước khi kích hoạt.  
Đó chính là các tiên đề mà trong các trường hợp kiểm tra số lượng lớn và quá  
trình điều chỉnh chất lượng cần thiết để đảm bảo rằng các mẫu không bị bẩn bởi  
các vật liệu riêng và các quá trình hoạt động thì cần để xử lí.  
Chuẩn bị cho việc chiếu xạ  
Xử lí hay không xử lí các mẫu được chuẩn bị để chiếu xạ bằng việc lựa chọn  
một phương pháp tóm gọn. Phương pháp này có tính đến kích thước và hình dạng  
của mẫu, các yếu tố hình học với sự chú ý đến tia hoặc thông lượng chiếu xạ sự  
mặt của các tiêu chuẩn thích hợp, máy đo thông lượng khoảng trống. Mẫu thì  
thường ngưng tụ thành thể tích nhỏ nhất phù hợp với việc xử tối thiểu.  
Sự phân hủy  
Dung dịch các mẫu sau khi chiếu xạ thì bị phân hủy trong hầu hết các phương  
pháp tiện lợi bảo đảm không làm mất các nguyên tố quan tâm, ví dụ: Iot (I) và  
các nguyên tố khác dễ bay hơi thể cần đến sự phân hủy của vật mẫu trong chu  
trình khép kín. Dung dịch mẫu hữu cơ thể bị hòa tan trong nước.  
Các dung dịch hữu cơ hoặc rắn thể cần đến sự hóa tro để giải phóng các  
nguyên tố đánh dấu cơ. Việc hóa tro này có thể thực hiện khô hoặc ướt. Hóa tro  
khô thì đơn giản nhưng nó có thể đưa đến việc mất các nguyên tố đánh dấu bởi sự  
8
bay hơi hoặc thể chuyển thành các thành phần chịu nhiệt. Hóa tro ướt, thường  
dùng với HNO3, thì dài dòng hơn nhưng khắc phục được các vấn đề của hóa tro  
khô.  
Các vật liệu thể bị phân hủy trong dung dịch axit thích hợp; trong  
một số trường hợp các nguyên tố quan tâm có thể số lượng lớn được lọc ra từ lúc  
đầu để cung cấp cho sự phân ly ban đầu từ số lượng lớn vật liệu. Các vật liệu chịu  
nhiệt thể bị phân hủy bằng hóa nhiệt. Axit riêng, bazo và thông lượng oxi hóa là  
khả dụng cho từng vật liệu.  
6.1.2. Hạt tải  
Phương pháp hạt tải của hóa phóng xạ thì tương tự như phương pháp đánh dấu  
chất phóng xạ, trừ nhiệm vụ của chất đánh dấu ngược. Trong phương pháp đánh  
dấu một lượng rất nhỏ của một đồng vị phóng xạ được thêm vào hệ được theo  
dõi. Trong phương pháp hạt tải, một lượng vật liệu trơ cần được thêm vào hệ mà  
một vài phần hạt nhân bị phân chia. Trong trường hợp giả thiết rằng vật liệu chứa  
hạt tải hạt nhân phóng xạ kết hợp đồng nhất trong suốt bất kì các quá trình sau.  
Giả thiết này là hoàn toàn vững chắc cho hóa phân tích khi hạt tải hạt nhân  
phóng xạ đồng vị với nhau. Nó cũng đủ vững chắc cho chất đánh đấu đồng vị và  
hạt tải khi không phải đồng vị của nhau nhưng tính chất hóa học của chúng là  
tương tự trong phương pháp để sử dụng. dụ, khi chiếu tia bức xạ proton vào hỗn  
hợp của Rubidium (Rb) và Cesium (Ce) có thể sinh ra các hạt nhân phóng xạ của  
nguyên tố kiềm thổ 185Sr và 133Ba. Canxi, một nguyên tố khác thuộc dãy kiềm thổ,  
thể được dùng để loại bỏ 185Sr và 133Ba. Tuy nhiên, phản ứng riêng có thể tách ba  
nguyên tố này ra khỏi nhau. Để đảm bảo hiệu quả của việc tách 185Sr từ 133Ba người  
ta thêm các hạt tải là strontium (Sr) và barium (Ba).  
Hóa học không có hạt tải  
Một nguồn hạt nhân phóng xạ chức một lượng rất nhỏ ( thường 1g  
)
đồng vị bền của một vài nguyên tố được gọi là không có hạt tải. Một dung dịch của  
nguồn thỉnh thoảng xuất hiện những tính chất khác thường; dụ một dung dịch  
 
9
không có hạt tải của 64-d85Sr có hoạt độ phóng xạ 1Ci thì nồng độ của Sr2+  
được tính như sau:  
642460  
2.22106 dpm  
N
D /  
0.693  
C   
V N V N  
C ; 51010  
103 6.0231023  
M
Tại điểm hoạt độ cực tiểu, ion có thể hấp thụ trên hầu hết bất hạt vật chất  
như bụi hoặc tấm chắn. Việc mặt của một lượng microgram của hạt tải thì  
thường đủ để ngăn sự mất mát bởi sự hấp thụ. Độ phóng xạ riêng thì đôi khi đạt  
được độ mong muốn cao (ví dụ giảm sự mất mát do tự hấp thụ trong vật mẫu với tia  
chiếu xạ yếu) và quá trình đó thì không phụ thuộc vào khối lượng cũng như trao đổi  
ion hoặc dung môi chiết xuất thì thường sử dụng cho hóa học không có hạt tải.  
Tính chất của hạt tải  
Để phù hợp cho phương pháp định lượng thì một hạt tải thường yêu cầu phải  
có 2 tính chất sau:  
1. Nhân phóng xạ quan tâm được quan sát bằng tính chất hạt tải trong tất cả các  
bước tách.  
2. Hạt tải phải đầy đủ tính chất như hạt nhân phóng xạ.  
Tính chất đầu tiên thì quá rõ ràng. Với hạt tải đồng vị chỉ ‘hiệu ứng đồng  
vị’ (sự phân li của các đồng vị khác trong khối lượng nguyên tử) thể đặc. Việc  
làm giàu 0.7% 235U trong tự nhiên lên tới 90% là một dụ cho việc ứng dụng hiệu  
ứng đồng vị. Tuy nhiên, trong tất cả các phòng thí nghiệm thực nghiệm hiệu ứng  
đồng vị không mấy quan trọng.  
Tính chất thứ hai có tầm quan trọng đáng kể, đặc biệt nếu hạt nhân phóng xạ  
không phải là dung dịch ion khi thêm hạt tải vào hoặc nếu nguyên tố thể thoát ra  
trong một vài trạng thái oxi hóa; ví dụ sự kết tủa của hạt tải I khi được thêm I- thể  
loại bỏ tất cả các tia phóng xạ I trước nếu trong dung dịch mặt IO3. Trong trường  
hợp hạt nhân có thể thoát ra trong vài trạng thái oxi hóa nguyên tố (hạt tải và  
đồng vị) thường chất oxi hóa và giảm trong suốt sự oxi hóa của bằng chất  
phản ứng phù hợp trước bất bước tách nào.  
10  
Sự cản trở hạt tải  
Hạt tải thì rất hữu dụng cho các nhân phóng xạ không liên quan mà có tính  
chất hóa học tương tự với nhân phóng xạ đang xét. Vì thế hạt tải được gọi sự cản  
trở hạt tải, trước khi chúng ngăn cản lượng nhỏ hạt nhân phóng xạ không liên quan  
từ sự hấp thụ hoặc được tải bằng nguyên tố. Sự cản trở hạt tải thì thường sử dụng  
cho nhân phóng xạ được hi vọng sẽ sinh ra số lượng lớn các hạt nhân phóng  
xạ mong muốn hoặc chia ra thành các nguyên tố đồng đẳng trong phương pháp mà  
hiệu suất của sự phân ly không quá lớn.  
Hiệu suất hoá học  
Phương pháp hạt tải của hóa phóng xạ bao hàm việc xác định hiệu suất hóa  
học. Nếu biết được lượng hạt tải thêm vào ( thường đơn vị là mg), sự phân ly của  
hạt nhân phóng xạ không cần định lượng. Cần chú ý đến việc phân ly nhanh của các  
hạt nhân phóng xạ thời gian sống ngắn hoặc của sự phân ly cực trị tinh khiết cho  
độ nhạy cực đại, phần bị mất của hạt nhân phóng xạ thể chấp nhận được. Khi độ  
phóng xạ riêng của hạt nhân phóng xạ là không đổi sau khi hòa trọn với hạt tải, tỉ số  
hồi phục của hạt tải (hiệu suất hóa học) thì cũng như tỉ số hồi phục của hạt nhân  
phóng xạ.  
Rõ ràng là lượng nguyên tố hạt tải mặt trong một mẫu ban đầu thì nhỏ kết  
hợp với lượng thêm vào. Đây thường trường hợp mà phép phân tích sự kích hoạt  
sử dụng để đo chất đánh dấu bằng microgam hoặc lượng rất nhỏ.  
Hiệu suất hóa học của sự phân ly thì được định nghĩa bằng việc đo lượng hạt  
tải còn lại. Việc xác định này có thể được thực hiện bằng vài phương pháp sau:  
1. Trọng lượng: mặc phương pháp này có rất sớm nhưng lại không phổ biến  
là vì hóa học thể phân ly hạt tải. Trong vài trường hợp, hợp chất đem cân có thể  
không đồng nhất, đó là do không xác định được hoặc không biết sự tổng hợp, đặc  
biệt quan tâm tới nước kết tinh.  
2. Thể tích hoặc trắc quang và các dụng cụ khác: những phương pháp này thì  
thường đặc trưng hơn cho từng nguyên tố. Chúng cần cho sự lấy mẫu, chuẩn và  
khoảng trống.  
11  
3. Bức xạ kế: dùng một lượng biết trước của một đồng vị phóng xạ khác như  
một chất đánh dấu cho hạt tải. Phương pháp này thì tiện lợi nhưng thường không  
thích hợp. Bên cạnh những tính chất thông thường của một chất đánh dấu phù hợp,  
cụ thể diễn biến hóa học tương tự, thời gian bán rã tương thích và dễ dàng đo sự  
phóng xạ, chất đánh dấu không ảnh hưởng đến việc đo hoạt độ phóng xạ của nhân  
phóng xạ đang xét. Một dụ cho kỹ thuật này là phép phân tích hoạt độ của  
vanadium V. Hạt tải của 52V (T = 3.7 phút) được sinh ra từ phản ứng 51V n,thì  
1/2  
49  
V được đánh dấu bằng V( T1/2 = 330 ngày), mà phân rã hoàn toàn bằng việc bắt  
electron và trước đó không có sự đóng góp từ việc đo đỉnh phổ của 52V. Sau đó 52V  
đã bị phân rã hoàn toàn, chất đánh dấu 49V thì được đo bằng ống đếm nhấp nháy.  
4. Phép phân tích kích hoạt: phương pháp này sử dụng cho sản phẩm phóng xạ  
thời gian sống ngắn. Sau khi đo phân rã hạt nhân phóng xạ, việc đếm vật mẫu mà  
chứa hạt tải được phục hồi thì được chiếu bằng cách tương tự như vật mẫu ban đầu.  
Trước khi lượng hạt tải lớn hơn lượng nguyên tố đánh dấu ban đầu, thì giờ đây hoạt  
độ phóng xạ sinh ra từ phép đo của lượng hạt tải mặt trong mẫu đếm. Kỹ thuật  
này đã được sử dụng để xác định hiệu suất hóa học của vanadium (V).  
6.1.3. Sự phân ly hoá học  
Sự phân ly hóa học một phần của phương pháp hóa phóng xạ kết quả là  
sự cách ly sản phẩm phóng xạ từ những nhân phóng xạ không phải đồng vị được  
sinh ra trong việc chiếu xạ ban đầu. Trong phương pháp hạt tải, quá trình này được  
thực hiện bằng việc cách ly nguyên tố hạt tải thích hợp cho phép đo phóng xạ và  
việc xác định hiệu suất hóa học.  
Tài liệu của phép phân tích hóa học chứa rất nhiều phương pháp hóa học mà  
sẽ tương ứng với việc tách bất kì nguyên tố nào. Mục 6.4 liệt một số hướng dẫn  
giới thiệu các phương pháp hóa phóng xạ rất đa dạng cho tất cả các nguyên tố.  
Thoạt nhìn cơ sở cho một sự lựa chọn của một phương pháp cụ thể bởi một nhà  
phân tích thiếu kinh nghiệm thực sự rất nhiều rắc rối. Tuy nhiên việc lựa chọn các  
bước cụ thể trong phương pháp hóa phóng xạ nói chung thông thường tập hợp  
các mục tiêu khi tách. Những mục tiêu này nói chung bao gồm :  
 
12  
1. Sự giảm khối lượng của vật mẫu đến mức tối ưu hoặc phù hợp với các điều  
kiện của phép đo phóng xạ. Những điều kiện đó hiệu suất cho trước sẽ xác định  
được lượng hạt tải cần thêm vào. Ví dụ: vật mẫu cuối cùng có thể một chất kết  
tủa mỏng trên một giấy lọc để đếm beta, một thể tích dung dịch nhỏ để đếm tia  
gamma trong một ống đếm nhấp nháy, hoặc một vật mẫu được phủ lên một lớp kim  
loại để đo phổ anpha.  
2. Sự cách ly nguyên tố hạt tải với độ tinh khiết hóa học và xác định hợp phần  
để xác định hiệu suất hóa học. Vài loại khác của phương pháp cách ly có thể được  
sử dụng để phân ly vài nhóm tạp chất. Các nguyên tố được phân ly từ tất cả các  
phương pháp đó thể vẫn cần tới một bước khác để chuyển đổi nó thành một dạng  
hóa học cho việc đo hiệu suất định lượng.  
3. Sự phân ly hóa học của các sản phẩm nhân phóng xạ từ các nhân phóng xạ  
không đồng vị khác, đặc biệt chúng có mặt trong hạt tải tự do hoặc nồng độ hoạt độ  
riêng cao. Phép đo hoạt độ phóng xạ cần phải đủ cao hơn hoạt độ phông để phù hợp  
với độ cính xác mong muốn của phép phân tích. Phổ phóng xạ thể vẫn cần để đo  
hạt nhân phóng xạ với sự mặt của các hạt nhân phóng xạ đồng vị của nó.  
Độ hụt khối lượng  
Sự hòa tan vật mẫu trước khi chiếu xạ sự cân bằng của nhân phóng xạ quan  
tâm với các hạt tải trong phương pháp phân ly ban đầu thường phân phối với sự  
phân ly tổng cộng của các hạt tải từ dung dịch ban đầu. Một vài nhân tố ảnh hưởng  
tới việc chon các phương pháp đó bao gồm thời gian bán rã và hoạt độ tổng cộng  
của các nhân phóng xạ riêng lẻ. Để được các nhân phóng xạ thời gian sống  
ngắn thì phương pháp nhanh là rất cần thiết. Để được các nhân phóng xạ riêng lẻ  
với hoạt độ thấp thì sự phân ly diễn ra liên tiếp cho từng hạt tải rất cần thiết.  
Trong tất cả các trường hợp đó thì chiến lược thường lấy đi nguyên tố quan  
tâm từ khối vật mẫu bằng các quá trình giảm khối lượng hoặc giảm thể tích như là  
sự kết tủa, sự chiết bằng dung môi, sự trao đổi ion, hoặc sự cất. Sự lấy đi của khối  
nguyên tố ban đầu thì thường được tránh đi trước khi nó có thể phân hạt hoặc kết  
hợp với việc lấy đi nhân phóng xạ quan tâm trong sự mặt của hạt tải của nó. Sự  
13  
phân ly tốt của một nguyên tố hạt tải thể lấy đi lượng nhỏ các nguyên tố ban đầu,  
nhưng chúng thường bị lấy đi trong sự phân ly sau đó.  
Bên cạnh sự tinh chế riêng của nguyên tố hạt tải từ dung dịch ban đầu, sự giảm  
khối lượng đến mg để hạt tải dễ dàng còn lại trong hoạt động hóa học trước khi  
chúng có thể bị lấy ra ngoài trong thể tích nhỏ.  
Trong một số phép phân tích kích hoạt riêng, sự phân ly ban đầu thể đủ cho  
độ cần thiết của sự phân ly hóa học đối với phép đo phóng xạ. Với những sản phẩm  
kích hoạt thời gian sống ngắn, tổng sphân ly hóa học thể đạt được trong thời  
gian đo phóng xạ trước khi chúng phân rã. Phạm vi phát triển của phương pháp  
phân ly nhân phóng xạ đã dần dần phát triển. dụ: Sự phân ly hóa học của  
14N(T1/2=8 giây) được sinh ra từ phản ứng 16O(n,p) đã được bằng quá trình cất trong  
7s, phương pháp thông thường cho sự phân ly nhanh hóa phóng xạ thì để chuẩn bị  
vật liệu bia trong hóa học vật lý phù hợp với sự hòa tan nhanh, trao đổi hạt tải và  
để giảm thời gian chuyển đổi từ sự chiếu xạ cuối đến khi bắt đầu sự phân ly. Hệ  
thống truyền tải khí thì thường sử dụng đối với sự cung cấp nhanh của vật bị chiếu  
xạ cho phòng thí nghiệm hóa phóng xạ.  
Sự cách ly hạt tải  
Sự lấy đi của nguyên tố hạt tải từ một số lớn dung dịch ban đầu của kỹ thuật  
phân li thì khả dụng. Việc lựa chọn thì thường được xác định bằng việc lấy đi các  
nguyên tố không liên quan. Trong nhiều trường hợp có vài phương pháp tốt như  
nhau thì phù hợp sự lựa chọn cuối cùng được điều khiển bởi các nhà phân tích  
thực nghiệm. Một số dạng thông thường của sự phân ly bao gồm; sự kết tủa, trao  
đổi ion, sự chiết bằng dung môi, sự cất sự mạ điện. Nguyên lý của các phương  
pháp này thì được tổng hợp trong mục 6.2.  
Giới hạn trong việc lựa chọn của các phương pháp phân ly thì thường được thí  
nghiệm duy nhất khi hạt tải của các nguyên tố tương tự được thêm vào lúc đầu. Ví  
dụ: việc loại bỏ hạt tải Ba và Sr từ dung dịch ban đầu sẽ cần đến sự phân ly xảy ra  
sau đó của hạt tải Ba và Sr trước khi chúng được tinh chế riêng lẻ.  
14  
Tiếp theo, sự phân ly của mỗi hạt tải xảy ra sau hoạt động hóa học thể bị  
lấy ra ngoài bằng việc sử dụng kỹ thuật “ phân tích hóa học bán vi lượng”. Đây là  
phương pháp duy nhất bao gồm lượng nhỏ mg thuốc thử. Các phương pháp như vậy  
thì thường được tiến hành trong một thể tích nhỏ (<40ml), dung dịch chất kết tủa  
thì được thao tác trong cùng một máy ly tâm, cột trao đổi ion có kích thước nhỏ,  
phểu chiết dung môi…Những kỹ thuật như vậy đưa đến những thuận lợi của việc  
hoàn thành nhanh của phép tính.  
Khi hạt tải đã đủ tinh khiết, thường được biến đổi thành một số dạng hóa  
học phù hợp với việc xác định hiệu suất hóa học hoặc thiết bị cho một phép đo  
phóng xạ. Trong các trường hợp sau, hiệu suất hóa học thể được xác định sau  
phép đo phóng xạ. Một số phương pháp riêng để xác định hiệu suất hóa học được  
liệt kê trong mục 6.1.2.  
lập hạt nhân phóng xạ  
lập hoàn toàn của một phần tử hạt tải "tinh khiết" một yêu cầu cao nhất  
cho một hạt nhân phóng xạ sạch”. Bari tinh khiết trong hợp chất được tách ra nhờ  
hạt tải strontium. Theo sự đánh giá chung của cách tách, cả hạt tải hạt nhân  
phóng xạ, được xác định bởi sự thay đổi trong kết quả tạo thành từ cách tiến hành  
tách bằng hóa học.  
Đối với số lượng hạt tải, hiệu suất hóa học của một phương pháp tách đặc biệt  
cho bất kỳ hai nguyên tố được xác định bởi hệ số phân ly SF mà được định nghĩa là  
tỷ lệ nồng độ của hai số nguyên tố trước và sau khi tách :  
A
B
     
i
i
SF   
(1)  
A
B
     
f
f
Trong đó :  
= là nồng độ trước khi tách,  
   
i
= nồng độ sau khi tách của hai nguyên tố A và B đã được tách ra.  
   
f
Thừa số tách của phân tử đơn vị không phụ thuộc vào việc tách bằng hóa học.  
15  
Trong phân ly hóa phóng xạ, mức độ tách của hai hạt đồng vị phóng xạ hạt  
nhân được xác định bởi hệ số làm sạch DF, được xác định bằng tỉ lệ độ phóng xạ  
của hai hạt nhân trước và sau khi tách :  
Ci D  
i
DF   
(2)  
Cf Df  
Trong đó :  
Ci = Hoạt độ ban đầu của hạt nhân phóng xạ tác động,  
= Hoạt độ ban đầu của hạt nhân phóng xạ mong muốn,  
D
i
chỉ số dưới f ý nói nó là hoạt độ cuối cùng của hai nguyên tố sau khi tách.  
Nhìn chung, hệ số làm sạch của 104 hoặc lớn hơn được tìm cho phương pháp  
tách hạt nhân phóng xạ. Tuy nhiên, nếu nguyên tố vi lượng tạo ra một hạt nhân  
phóng xạ hoạt độ của chỉ được đo bằng phương pháp hóa phóng xạ mang lại  
hệ số làm sạch cao hơn mong muốn.  
Ngoài những phương pháp tách cụ thể để loại bỏ nhân phóng xạ mong muốn  
từ những hạt nhân phóng xạ động, phương pháp tách có thể được dùng để loại bỏ  
những hạt nhân phóng xạ cụ thể từ hạt tải trong dung dịch. Chúng được gọi là quá  
trình lọc, nói chung chúng tham gia việc bổ sung thêm hạt tải thích hợp trong dung  
dịch và thêm các hạt tải để tạo thành kết tủa. Các kết tủa mang hạt nhân phóng xạ  
can thiệp đi loại bỏ. Kỹ thuật này thường được sử dụng trong chiết xuất dung môi  
sự phân ly trong dung dịch trao đổi ion.  
Đối với phân tích kích hoạt của các nguyên tố vi lượng đến mức gần độ nhạy  
cao nhất, kiểm tra nghiêm ngặt nhiều lần trong hóa phóng xạ đã được phát triển để  
đo mức phóng xạ thấp nhất. Nếu chất kết dính hoặc những thành phần nguyên tố  
chính trong số lượng hạt nhân phóng xạ can thiệp, hệ số làm sạch khoảng 109 hoặc  
cao hơn thể được yêu cầu.  
Hóa phóng xạ sơ cấp thể được định nghĩa sự phân tách của hạt nhân  
phóng xạ với tốc độ đếm tỉ lệ với tốc độ đếm của mẫu trắng. Những máy đếm  
phông thấp dùng để đo mức phóng xạ thấp đã được tả trong mục 5.2.1. Như vậy  
thông thường những phông đó giới hạn khoảng từ 0,2 đến 1cpm.  
16  
Mẫu trắng trong phân tích hóa học một mẫu được xử tương tự mẫu  
được phân tích. Mẫu trắng chất thử thì được sử dụng trong phân tích kích hoạt  
khi xử mẫu trước chiếu xạ bắt buộc. Các mẫu trắng bắt đầu với cùng một  
lượng của chất phản ứng hoặc nước khử ion hóa được sử dụng để hòa tan các mẫu  
thực tế. Mẫu trắng theo đó sẽ cho biết nồng độ các nguyên tố từ phản ứng dùng  
trong xử mẫu trước khi chiếu xạ chất phóng xạ nào đó được đưa vào mẫu từ  
các phản ứng và các hạt tải xử trước khi đo tổng bức xạ. Gần như tất cả các hóa  
chất sản xuất đều chứa một số phóng xạ từ hai nguồn tự nhiên hoặc thử  
nghiệm vũ khí hạt nhân, mẫu trắng thường chứa một số phóng xạ. Trong một số  
trường hợp, tốc độ đếm của mẫu trắng thường lớn hơn một ít so với số đếm  
phông. Cả hai đều đóng góp vào tốc độ đếm của mẫu trắng nên phải trừ đi để có  
được tốc độ đếm của mẫu. Các mức độ kích hoạt mà hóa phóng xạ sơ cấp thường  
xác định hệ số của hoạt độ của mẫu trắng cộng với hoạt độ phông coi như không  
đáng kể.  
Những lưu ý chính cho hóa phóng xạ ở mức sơ cấp (cũng thích hợp cho mức  
cao cấp ) như sau:  
1. Lựa chọn các thuốc thử biện pháp mà làm giảm số đếm phông của  
mẫu trắng.  
2. Lựa chọn các biện pháp mà có hiệu suất hóa học cao và độ tinh khiết  
của hóa phóng xạ cao.  
3. Lựa chọn các điều kiện của nguồn để hiệu suất của nguồn đạt đến mức  
độ tối đa.  
Các phương tách hóa học phổ biến cho các mẫu hoạt độ mức cao. Sự khác  
biệt giữa hai trong những hệ số được liệt trên được chú ý nhiều cần thiết  
trong việc lựa chọn thuốc thử chất tải hoá học được nhắc lại nhiều trong các  
bước tách cụ thể để đạt được hệ số làm sạch cần thiết.  
Sau khi đạt được sự tinh khiết yêu cầu chất tải được chuẩn bị phù hợp để đo  
bức xạ. Phương pháp kỹ thuật cho sự chồng chập tăng lên trong số đếm của mẫu  
là khác nhau. Cần xem xét đến nhiều yếu tố như diện tích mẫu, khối lượng, loại  
17  
bức xạ, năng lượng của bức xạ và các loại mẫu trang bị phù hợp với các thiết bị dò  
sẵn.  
Dung dịch đó thể được làm bay hơi trên đĩa hoặc trên tấm kim loại mỏng  
tròn. Thông thường, quan tâm lớn nhất là tránh đổ mẫu ra ngoài và thu được các lớp  
trầm tích dày đều nhau. Đối với các phép đo tia gamma, những dung dịch đó thể  
được chuyển trực tiếp đến một lọ nhỏ tại đó thể tích chuẩn của dung dịch được tính.  
Một phương pháp phổ biến khác là làm kết tủa các hạt tải lọc chúng trên tờ giấy  
lọc. Kết tủa được sấy khô sau đó đem cân để xác định sản lượng hóa học trước khi  
đặt vào phép đo bức xạ. Trong nhiều trường hợp hạt nhân phóng xạ thể được mạ  
điện, hạt tải tự do hoặc một số lượng nhỏ hạt tải được phủ lên đĩa kim loại mỏng  
của điện cực.  
6.2. Các phương pháp tách  
Nguyên tắc trong việc lựa chọn các phương pháp phân tách trong hoá phóng  
xạ bao gồm xem xét một số mục tiêu chung. Cho đến nay, trong hầu hết những ứng  
dụng tính chất của những đồng vị phóng xạ can thiệp hoặc các thành phần vĩ mô  
cần phải xem xét về tính chất hóa học cụ thể của chúng đối với các nguyên tố mong  
muốn. Mặc một số lượng lớn các kỹ thuật được sử dụng trong phương pháp tách  
bằng hóa phóng xạ, nhưng số lượng thực tế sử dụng trong hầu hết các phân tách là  
nhỏ. Chúng tham gia vào các quá trình chính cho việc xử lý ion vô nồng độ  
thấp. Đó là sự kết tủa (hoặc hiện tượng lắng ), sắc ký trao đổi ion và chiết xuất dung  
môi. Đối với một số kỹ thuật chưng cất mạ điện cũng được sử dụng phù hợp với  
hóa phóng xạ.  
6.2.1. Sự kết tủa  
Sự kết tủa kỹ thuật hóa học cổ điển nhất dùng cho tách bằng hóa học. Cơ sở  
để phân tích trọng lượng việc xác định số lượng của vật chất đã biết thành phần  
bằng cách cân khối lượng của chúng. Nếu kết tủa đã bị hòa tan, có thể xác định  
được bằng cách phân tích thể tích là phép đo số lượng bằng sự chuẩn độ với một  
lượng cân bằng hóa học của chất phản ứng. Sự phân tách kết tủa phương tiện chủ  
   
18  
yếu trong những phương pháp tách hóa phóng xạ được thích nghi từ phân tích hóa  
học thông thường.  
Sự kết tủa thể được định nghĩa sự lắng xuống của chất rắn từ một dung  
dịch do hoạt động của một tác nhân được thêm vào như là: một thuốc thử hóa học,  
nhiệt, điện, hoặc năng lượng âm. Cơ chế của sự kết tủa phức tạp. Rõ ràng sự hình  
thành của pha chất rắn sau quá trình cấu tạo nên hạt nhân không hoàn toàn được  
hiểu rõ. Dung dịch đã biết chứa tập hợp phân tử ( phôi tinh thể ) của các chất tan  
được phân tán ngẫu nhiên khắp dung môi. Những tập hợp đó trải qua hình thành  
liên tục, sự hòa tan đó cân bằng với dung môi xung quanh. Nếu tập hợp phân tử  
có kích thước giới hạn vượt quá thì tập hợp những phân tử đó trở thành tinh thể và  
tinh thể này tiếp tục phát triển. Quá trình cấu thành hạt nhân đòi hỏi một dung dịch  
bão hòa nghĩa một trong những sản phẩm hòa tan của lượng chất tan bị vượt quá.  
Tốc độ của kết tủa xảy ra phụ thuộc một phần vào mức độ bão hòa. Nhiều yếu tố  
khác ảnh hưởng đến độ tinh khiết, tính chất đầy đủ, tỷ lệ của chất kết tủa. Trong  
số đó nồng độ tạp chất, loại tác nhân kết tủa sử dụng, số lượng vượt quá tác nhân  
sử dụng, nhiệt độ, tỉ lệ khuấy.  
Ảnh hưởng của tỷ lệ kết tủa thể được chia thành hai loại : kết tủa chậm và  
kết tủa nhanh. Sự kết tủa ở mức chậm được mong muốn cho sự phân ly trong phân  
tích, sau đó thông thường kết quả của sự hình thành là một lượng lớn tinh thể.  
Những tinh thể đó chiếm một thể tích nhỏ hơn, ít làm bẩn dung dịch dễ dàng lọc  
rửa sạch kết tủa chậm thể được thực hiện theo hai cách:  
1. Bằng cách thêm một dung dịch loãng dần dần của chất làm kết tủa rồi từng  
bước khuấy lên từ từ để làm ấm hoặc làm nóng dung dịch.  
2. Bằng cách thêm chất kết tủa gián tiếp từ dung dịch dụ như kết quả thủy  
phân của chất phản ứng này.  
Phương pháp đầu tiên làm tăng số lượng kết tinh lại trong suốt quá trình thủy  
phân của chất kết tủa, trong khi kết quả phương pháp thứ hai trong cấu tạo hạt nhân  
cho một số lượng nhỏ tinh thể, cả hai quá trình dẫn đến sự hình thành các tinh thể  
19  
lớn. Phương pháp thứ hai đó được gọi sự kết tủa từ các dung dịch đồng nhất và  
một số dụ được liệt kê trong bảng 6.1.  
Bảng 6.1 Tóm tắt các phương pháp kết tủa mà sử dụng từ dung dịch đồng  
nhất.a  
Chất kết tủa  
Hydroxide  
Chất phản ứng  
Nguyên tố kết tủa  
Urea  
Al, Ga, Th, Fe(III),  
Sn, Zr  
Axetat  
Ti  
Hexamethylenetetramine  
Hợp chất kim loại và H2O2  
Triethyl phosphate  
Trimethyl phosphate  
Axít Metaphosphoric  
Urea  
Th  
Fe(III)  
Zr, Hf  
Zr  
Zr  
Mg  
Th, Ca, Am, Ac,  
kiềm thổ  
Mg, Zn, Ca  
Ca  
Ba, Ca, Sr, Pb  
Ba, Pb, Ra  
Ba  
Phosphate  
Oxalate  
Sulfate  
Dimethyl oxalate  
Diethyl oxalate  
Urea và một oxalate  
Dimethyl sulfate  
Axít Sulfamic  
Kali methyl sulfate  
Ammonium persulfate  
Hợp chất kim loại và persulfate  
Thioacetamide  
Ba  
Ba  
Sulfide  
Iodate  
Pb, Sb, Bi, Mo, Cu,  
As, Cd, Sn, Hg, Mn  
Th, Zr  
Iodine và chlorate  
Periodate và ethylene diacetate  
(hay - hydroxyethyl acetate)  
Ce(III) và bromate  
Trichloroacetate  
Urea và dichromate  
Kali cyanate và  
Th, Fe(III)  
Ce(IV)  
Kiềm thổ, Ba, Ra  
Ba, Ra  
Carbonate  
Chromate  
Ba, Ra  
Dichromate  
Cr(III) và bromate  
Pb  
Periodate  
Chloride  
Acetamide  
Fe(III)  
Ag  
Ag ammonia phức tạp -  
Hydroxyethyl acetate  
Asenit và nitrate  
Axít Tetrachlorophthalic  
Urea và hợp chất kim loại  
Urea và hợp chất kim loại  
Axít Fluoboric  
Asen  
Zr  
Th  
Ni  
Al  
La  
Tetrachlorophthalate  
Dimethylglyoxime  
8-Hydroxyquinoline  
Florua  
a Từ I. M. Kolthoff, P. J. Elving, và E. B. Sandell, Treatise on Analytical Chemistry,phần 1, quyển  
1, trang 741 (Wiley-Interscience, New York, 1959). Phương pháp được cho bởi L. Gordon, M. L.  
Salutsby, và H.H. Willard, Precipitation from Homogeneous Solution (Wiley, New York, 1959).  
20  
Những chất kết tủa xảy ra trong các tinh thể có kích thước rất nhỏ, nghĩa là có  
đường kính nhỏ hơn 1μ, được gọi là keo. Kết tủa keo thường được tránh trong phân  
tích trọng lượng bởi vì chúng khó khăn để xử lý. Chúng có thể truyền trực tiếp  
thông qua giấy lọc thông thường đòi hỏi nhiều kỹ thuật như là siêu lọc và siêu ly  
tâm được thu thập một cách hiệu quả. Tuy nhiên trong phân tích hóa phóng xạ kết  
tủa dạng keo có thể quan tâm theo hai cách:  
1. Sự tách hạt tải tự do trong nhân phóng xạ từ các dung dịch sản phẩm tạo  
ra là một hợp chất được xem như không hòa tan trong nồng độ hạt tải là không vượt  
quá.  
2. Sự hấp thụ của hạt nhân phóng xạ can thiếp hiện tại trong nồng độ hạt tải tự  
do.  
Đặc tính sau cùng mà trong đó hạt tải của một chất kết tủa với hợp chất của  
chất tan khác từ dung dịch thì được gọi hiện tượng cùng lắng. Nó có tầm quan  
trọng chung trong hóa phóng xạ. Sự đưa vào sử dụng của các chất bị dơ lắng xuống  
thể xảy ra thông qua một số cơ chế như tinh thể hỗn hợp, sự hấp thụ bề mặt, sự  
hút giữ (và bao gồm ) và sau khi kết tủa.  
Trong hiện tượng cùng lắng tinh thể hỗn hợp của chất gây ô nhiễm thì được  
chứa đựng như là dung dịch đặc. Những hợp chất đồng hình là dạng của những tinh  
thể hỗn hợp chẳng hạn như đất hiếm, hiện tượng lắng dưới được hình thành từ  
các thành phần hằng số mạng tinh thể không khác nhau nhiều hơn 5% từ những  
cái khác. Yêu cầu này không cần đáp ứng nếu nhân phóng xạ lắng xuống trong hạt  
tải hay những vết đậm. Nếu nồng độ của tạp chất đồng nhất trên toàn kết tủa, sự  
phân bố của các tạp chất giữa các kết tủa và dung dịch được đưa ra bởi định luật  
phân bố của Berthelot – Nernst là :  
T
T
   
   
s
l
(3)  
D  
C
   
C
   
S
l
Trong đó :  
D là hệ số phân bố đều  
21  
nồng độ của vết phóng xạ T và hợp chất hạt tải C, và các chỉ số dưới  
   
chỉ chất rắn s và pha dung dịch l.  
Trong các điều kiện kết tủa chậm, đánh đấu hạt nhân phóng xạ thì không trở  
thành phân bố đều trên toàn kết tủa. Sự tăng của các tinh thể lớn hơn có xu hướng là  
không phân bố đồng đều trong dung dịch. Trong những điều kiện này, sự phân bố  
của các hạt nhân phóng xạ đánh dấu được Doerner-Hoskins đưa ra qui luật là :  
T
C
   
   
i
i
ln  
ln  
(4)  
T
   
C
   
f
f
Trong đó hệ số phân bố logarit, các dấu ngoặc mà có chỉ số dưới (i) và (f)  
nồng độ của hạt nhân phóng xạ đánh dấu hợp chất hạt tải (C) trong dung dịch.  
Trong hầu hết những kết tủa hóa phóng xạ mà trong đó một vài kết tinh lại xảy ra,  
việc phân bố thực tế của một hiện tượng cùng lắng hạt nhân phóng xạ đánh dấu sẽ  
nằm đâu đó giữa sự phân bố đưa ra bởi hai qui luật. Bằng thực nghiệm, xác định  
được hệ số phân bố làm sạch đạt được bằng các phương pháp kết tủa luân phiên  
nhau.  
Trong bề mặt hấp thụ không đầy đủ chỉ số ion phối trí trên bề mặt của tinh thể  
kết quả trong một mạng lưới hấp thu cho những ion khác trong dung dịch. Những  
ion tương ứng trong kết tủa thì hút mạnh. Nếu một trong các ion của một chất kết  
tủa thì vượt quá trong dung dịch, các ion tạp chất của các điện tích trái dấu thể  
được gắn vào bề mặt của các tinh thể, những tinh thể ấy tiếp tục phát triển. Hai đặc  
tính của kết tủa làm ảnh hưởng đến mức độ hấp thu bề mặt diện tích bề mặt cụ  
thể (ví dụ, diện tích bề mặt trên một đơn vị trọng lượng) và các điện tích electron  
trên bề mặt chung của tinh thể dung dịch. Các tính chất đặc biệt quan trọng đối với  
kết tủa keo mà biểu hiện là có hiệu quả cao đối với bề mặt hấp thu.  
Các cơ chế hấp thụ bề mặt thể giải thích lý thuyết khuếch tán lớp kép trong  
đó lớp 1 là cố định trên bề mặt lớp tiếp giáp bên ngoài thì di chuyển tự do (lớp  
khuếch tán). Những lớp điện tích có được sự tồn tại của chúng để hấp thu các ion đã  
được trình bày ở phần bên trong của kết tủa. thuyết này giúp giải thích tại sao  
22  
các dung lượng chất điện phân trong một dung dịch làm ảnh hưởng đến độ lớn và  
dấu của điện tích của chất kết tủa keo. Các ion có mặt trong lớp ngoài khuếch tán  
của dung dịch keo kéo dài vào dung dịch ở ngoài, không có ranh giới rõ ràng giữa  
các ion trong lớp khuếch tán bên ngoài và những ion trong dung dịch cân bằng bên  
ngoài. Nồng độ của các ion tạo thành lớp khuếch tán khác nhau và phụ thuộc vào  
nồng độ độ pH của dung dịch bên ngoài. Với sự bổ sung của một chất điện phân,  
sự kết bông của một dung dịch keo thường kết quả trong hấp thụ bề mặt của chất  
điện phân.  
Mức độ hấp phụ đã được tả bởi một quy tắc thực nghiệm, dụ qui tắc hấp  
thụ Paneth-Fajans-Hahn: một chất kết tủa hiệu quả sẽ hấp thcác ion mà các hợp  
chất với tinh thể của ion có điện tích trái dấu thì có tính tan thấp. Mức độ hấp thu  
của một tạp chất cụ thể thì cũng phụ thuộc vào nồng độ của nó. Các mối quan hệ  
thực nghiệm được cho bởi các đường đẳng nhiệt hấp phụ Freudlich:  
n
A C 1  
(5)  
Trường hợp  
A là lượng tạp chất hấp phcho mỗi đơn vị trọng lượng của vật liệu hấp thu  
C là nồng độ tạp chất sau khi hấp thụ  
Và n, là các hằng số  
Phương trình này cho thấy rằng khả năng hấp phụ lớn cho nồng độ thấp, và  
mức độ hấp thụ đạt đến một giá trị bão hòa là tăng nồng độ tạp chất. vậy, bề mặt  
hấp phụ một quá trình hiệu quả cho hiện tượng lắng xuống của hạt tải tự do  
phóng xạ hạt nhân. Tác nhân đông tụ như Al(SO4 )3 Fe(OH)3 được dùng để  
tạo ra kết tủa (chất cặn thải ) nhiều tạp chất hạt tải tự do phóng xạ hạt nhân. Theo  
qui tắc hấp thụ Paneth-Fajans-Hahn, các cation tạo thành mà không hòa tan sulfates  
và hydroxit tương ứng sẽ hiệu quả hiện tượng lắng xuống. Theo đường đẳng  
nhiệt hấp thụ Freundlish, sự mặt của hạt tải (một hạt tải làm cản trở ) làm giảm  
mức độ lắng xuống nếu hạt tải ion muối điện tích trái dấu thì chỉ thể hoà tan  
trên danh nghĩa.  
23  
Sự hút của một tạp chất trong một kết tủa thì thường định nghĩa sự hút cơ  
học hoặc sự bắt hạt của tạp chất bằng các lớp tinh thể phát triển nhanh chóng. Quá  
trình kết tủa nhanh đó trong dung dịch cả chất tan và dung môi có thể bị hút giữ  
dưới dạng kết tủa dưới diều kiện là cô dặc. Hiện tượng cùng lắng bởi sự hút xảy ra  
phổ biến nhiều hơn chất kết tủa keo như kết tủa hydrixit và sulfua. Làm ngưng  
kết tủa thể kết quả trong sự cách ly của một vài tạp chất bị hút giữ. Kết quả  
trong qui trình kỹ thuật hóa phóng xạ thường được thực hiện dưới điều kiện  
không cân bằng trong đó sự hút giữ hạt tải tự do của phóng xạ hạt nhân tạp chất có  
thể xảy ra. Những biện pháp bao gồm việc sử dụng các hạt tải cản trở cho biết hạt  
nhân phóng xạ can thiệp thích hợp, làm ngừng của các kết tủa chậm.  
Sau khi kết tủa thì một giai đoạn chất rắn thứ hai hình thành trên kết tủa của  
hạt tải hợp chất đầu tiên. Nó có thể xảy ra khi tạp chất có xu hướng hình thành một  
dung dịch quá bão hòa ổn định đó là không có kết tủa trong dung dịch nguyên chất.  
Một dụ của quá trình này trong hóa phân tích là sau kết tủa của magnesium  
oxalate trong calcium oxalate. Magnesium oxalate hình thành từ dung dịch bão hòa  
mà nó không sinh ra kết tủa trong dung dịch nguyên chất. Nó không có hiện tượng  
cùng lắng xuống cùng với các kết tủa mới calcium oxalate. Tuy nhiên, nếu calcium  
oxalate không phải lọc ngay lập tức, một giai đoạn chất rắn thứ 2 của magnesium  
oxalate sẽ kết tủa trên các tinh thể calcium oxlate.  
Các nguyên tắc của các quá trình kết tủa này cho biết rằng nó không có gắn  
với qui tắc kết tủa để tránh hiện tượng lắng xuống của tất cả các loại hạt nhân phóng  
xạ can thiệp. Nhiều phương pháp đã được phát triển trong hóa phóng xạ để giảm  
mức độ lắng xuống. Một vài ý được tóm tắt trong bảng 6.2. Các qui tắc chung là kết  
tủa từ dung dịch loãng nóng, thêm các chất kết tủa vào từ từ. Cùng với việc cho vào  
đó ta khuấy đều dung dịch và cho phép kết tủa trước khi lọc rửa với một dung  
dịch rửa phù hợp.  
Bảng 6.2 cũng cho thấy rằng tái kết tủa lại một quá trình hiệu quả trong  
phóng xạ hóa học để cải thiện độ tinh khiết của các hạt tải kết tủa, không chú ý đến  
quá trình mà hạt nhân phóng xạ can thiệp đã bị lắng xuống. Trong tái kết tủa lại, kết  
24  
tủa đã bị hoà tan trong một dung môi thích hợp, pha loãng và các điều kiện kết tủa.  
Sự tái tạo kết tủa lại thông thường cho phép bất kỳ hệ số làm sạch cần tìm đều tìm  
được. Nếu hạt nhân phóng xạ cụ thể can thiệp được biết mặt, các hạt tải cản trở  
thể thêm vào để tăng hệ số làm sạch cho các hạt nhân phóng xạ.  
Bảng 6.2 Ảnh hưởng của trạng thái kết tủa trong sự tinh khiết của chất kết tủaa  
Dạng không tinh khiếtb  
Trạng thái  
Tinh thể  
pha trộn  
Bề mặt  
Sự hút  
Vỉ  
hút  
giữ  
kết tủa  
Dung dịch loãng  
Sự kết tủa chậm  
Sự tiêu hóa kéo dài  
Nhiệt độ cao  
0
+
-
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
0
0
-
-
-
0
0
0
+
Hỗn độn  
+
0
+
Chất kết tủa lớp mỏng  
Sự kết tủa lại  
+
a
Trích từ I. M. Kolthoff, P. J. Elving và E. B. Sandell, Treatise on Analytical Chemistry,  
phần 1, quyển 1 (Interscience, New York, 1959).  
b
+ = tăng độ tinh khiết  
- = giảm độ tinh khiết  
0 = không đáng kể hay không thay đổi độ tinh khiết  
Một thuận lợi khác của chất kết tủa trong các kết quả hóa phóng xạ từ việc  
tách thông thường kết tủa từ các dung dịch nổi trên bề mặt bởi máy li tâm  
(centrification)và lắng gạt hơn bởi sự tách lọc. Việc làm này cũng thể dễ dàng để  
rửa kết tủa với ước số nhỏ của dung dịch loãng chất kết tủa trong dung dịch phản  
ứng hoặc nước. Kết tủa thể sau này được hòa tan trong các ống ly tâm giống  
nhau xảy ra sau. Lọc trên các giấy lọc nhỏ (đường kính < 1 in ) thì thường được  
dùng để kết tủa cuối cùng của nguồn đếm trong một hợp chất của hệ số tủy lượng  
hoặc tái sản xuất để xác định hóa chất.  
25  
6.2.2. Sắc ký trao đổi ion  
Từ các mô tả của sắc phổ đầu tiên vào năm 1906, sắc đã được xác định  
bằng nhiều cách: nhưng nó là cơ bản của một quá trình tách trong đó hỗn hợp ion  
hoặc phân tử được tách bởi sự phân bố khác nhau của chúng giữa hai giai đoạn, nói  
chung là một di chuyển một đứng yên. Nếu giai đoạn đứng yên là bất kỳ của một  
số lượng lớn các loại nhựa trao đổi ion, quá trình tách được gọi sắc ký trao đổi  
ion. Phương pháp phổ biến khác là phương pháp tách mà có liên quan đến giai đoạn  
di chuyển và giai đoạn đứng yên bao gồm sắc ký phân đoạn và phép sắc chất khí.  
Phép sắc ký phân đoạn, được đặt tên vào năm 1942, chủ yếu một quá trình  
chiết xuất chất lỏng - chất lỏng trong đó một trong các dung môi lỏng silicon (si)  
được duy trì trong một giai đoạn đứng yên, chẳng hạn như một cột silica gel. Silica  
gel có thể hấp thu hơn 50% trọng lượng của nó trong nước ướt không đáng kể  
bởi vậy nó có chức năng giữ cố định cho một giai đoạn do nước tạo thành. Các  
vật liệu sử dụng như vật liệu hỗ trợ bao gồm nhôm, khoáng chất, bari sulfat,  
sulfat canxi, cellulose, than, magie, và titan dioxied. Mặc dù phép sắc kí phân đoạn  
thì được dùng cho việc phân tách của nhiều vật liệu ionrganic và được sử dụng  
nhiều trong phân tích hóa học, thành công của đáng chú ý trong việc tách của các  
chất hữu cơ. Một phát triển gần đây trong phép sắc hấp phụ đã được sử dụng các  
dải giấy lọc như dụng cụ hỗ trợ các giai đoạn đứng yên. Quá trình này gọi là phép  
sắc giấy, đã được phổ biến trong phân ly hóa phóng xạ của các vật chất hoạt  
độ cao cụ thể, vì các dải giấy thể được cắt thành những phần nhỏ để đo phóng xạ.  
Phép sắc ký khí, giới thiệu vào năm 1952, là một hỗn hợp các phương pháp  
tách của các khí trong một giai đoạn vận chuyển khí vượt qua giai đoạn đứng yên,  
hoặc một chất rắn hút hoặc chất lỏng hấp thụ được hỗ trợ trên một vật liệu mất  
hoạt tính, như trong phép sắc ký phân đoạn. Khí vận chuyển thường một khí trơ,  
chẳng hạn như hydro, heli hoặc nitơ. Các chất rắn hấp thụ bao gồm alumina, silica  
gel, zeolit và than hoạt tính trong các kích cỡ hạt cụ thể, giới hạn từ 20 đến 200  
mạng lưới. Các chất lỏng hấp thụ bao gồm các dung môi hữu cơ như là paraffin  
lỏng, benzylbiphenyl, hoặc acetonylacetone. Việc sử dụng các dòng chảy khí đốt tốt  
 
26  
hơn một chất lỏng chảy đã giới thiệu một số lợi thế về kỹ thuật ghi sắc, dụ như  
phép sắc ký khí là cần thiết cho các nuclit phóng xạ tách khí, chẳng hạn như  
krypton và xenon, và sử dụng rất lớn trong phân ly hóa học mà trong đó hạt nhân  
phóng xạ mong muốn thể dễ dàng bốc hơi. Phương pháp này thường dùng cho  
các chất có áp suất hơi lớn hơn khoảng 10 mm Hg ở nhiệt độ hoạt động của cột sắc  
ký khí. Các tài liệu tham khảo chung về phép sắc ký phân đoạn và phép sắc chất  
khí được đưa ra trong mục 6.4.2.  
Ion trao đổi nhựa, được sử dụng trong hóa phóng xạ, nói chung là một  
polymerized không hòa tan hydrocarbon với các vị trí lặp đi lặp lại cho các nhóm  
ion có thể dễ dàng phân ly. Các loại nhựa này có thể trao đổi với các cation hoặc  
anion, theo điện tích nhóm ion hóa, ví dụ, nhựa trao đổi cation thường được làm  
bằng nhựa đã cố định các vị trí anion trong các hình thức như  
Sulfonic axít: Rs - SO3 - H  
Axit cacboxylic: Rs - COOH  
Trong đó :  
Rs là hydrocarbon polymerized và ở dạng axit, hydro là các cation trao đổi.  
Nhựa trao đổi anion thường trọng lượng phân tử cao cơ bản không hòa tan với  
các ion cố định trong dạng cation, như  
nhóm Anino : Rs - NH2, Rs - NHR, R2 - NR2  
nhóm Amoni bậc bốn: Rs – NR+  
3
Loại thứ hai là đặc tính của nhựa mạnh cơ bản nó dùng cho sự phân ly-anion  
cơ. Hai đặc tính quan trọng của các loại nhựa trao đổi ion là không hòa tan và  
chất hóa học ổn định. hầu hết các polyme tuyến tính có chứa axít sulfonic hoặc  
nhóm amoni bậc bốn được hòa tan trong nước, mạng polyme, đó là, cấu trúc phân  
tử có có mắc xích chéo, rất hữu ích cho các loại nhựa trao đổi ion. Như nhựa  
hydrocarbon có thể thu được bằng cách trùng hợp của phenol và formaldehyde hoặc  
các styrene và devinylbenzene. Hai loại nhựa phổ biến cho phân ly hóa phóng xạ là  
sunfonat hóa phenol-formaldehyde cho nhựa trao đổi cation và amoni bậc bốn cơ sở  
polystyrene-divinylbenzene cho nhựa trao đổi anion. Các đơn vị mắc xích chéo  
27  
của hai loại nhựa trao đổi ion được thể hiện trong hình 6.1. Sự hydrat hóa, mà có xu  
hướng cấu trúc lưới đặc sắc, tạo điều kiện trao đổi ion dễ dàng với các vị trí lưới  
bên trong.  
Số lượng các nhóm ion tao đổi được giới thiệu trong mạng polyme quyết định  
khả năng trao đổi của nhựa trong một đơn vị khối lượng. Đơn vị của khả năng trao  
đổi thường được cho là milliequivalents phần gram đối với nhựa khô hay  
milliequivalents phần mililit đối với nhựa ẩm. Tiêu biểu khoảng 4.6 meq/g và 2.0  
meq/ml cho cation nhựa sunfat và khoảng 3.5 và 1.1 cho anion bazo bậc 4 bền  
vững.  
Phép ghi sắc trao đổi ion trong hoá phóng xạ phổ biến được chuẩn bị bởi một  
cột nhựa trao đổi ion và dung dịch của nhân phóng xạ pha trộn tại đỉnh cột ở trạng  
thái đó nhân phóng xạ sẽ chuyển lên trên pha tĩnh. Sau đó dung dịch gốc xuyên qua  
cột chứa nhân phóng xạ nước giải hấp; tỷ lệ với chất di chuyển xuống cột được  
quyết định bởi sự sắp xếp hệ số của nhân phóng xạ cho hệ thống dung môi – nhựa.  
Nếu hai chất hoá học tương tự như nhân phóng xạ di chuyển xuống cột với tỉ lệ  
khác nhau, một phổ tách của hai nhân phóng xạ được nhìn giống dải phép ghi sắc  
dạng Gauss được minh hoạ trong hình 6.2. Dạng cơ bản của đường cong tách trong  
phép ghi sắc trao đổi ion được biết đến vấn đề nghiên cứu lớn. thuyết của  
phép ghi sắc trao đổi ion được mở ra từ cơ chế của sự trao đổi ion, bao gồm thuyết  
lưới tinh thể, thuyết lớp kép, và thuyết màng Donnan.  
28  
Hình 6.1 Cấu trúc đơn vị của ion nhựa trao đổi: (a) cation Sulfonated phenol-  
formaldehyde; (b) anion quarter-nary ammonium polystrene-divinylbenzen  
U. Thể tích tách (ml)  
Hình 6.2 Đường cong biểu diễn tách 2 ion A và B thông qua trao đổi ion cột  
nhựa  
29  
Thuyết lưới tinh thể được rút ra từ sự giống nhau giữa sự trao đổi của lưới ion  
sự pha trộn của hai chất điện phân có thể hoà tan. Nghiên cứu trong phạm vi  
rộng với zeolit tự nhiên, vật chất độ xốp cao, cấu trúc chuỗi silicat đã chỉ ra đó là  
natri và canxi chất giữ cho vị trí lưới hợp chất thể trao đổi thuận nghịch.  
Trong kết tinh silicat đất sét vô cơ như kaolinite trao đổi anion đã được giải thích,  
ngược lại mont-morillinite thì chưa, cả hai ion này biểu hiện thể trao đổi.  
thuyết lớp kép của trao đổi ion xuất phát từ những đặc tính điện động lực  
học của các chất keo, đã được trình bày trong phần 6.2.1. Với nhựa trao đổi ion  
được giữ như một chất kết tủa keo cân bằng với dung dịch ngoài, nồng độ của các  
ion trao đổi được trong lớp khuếch tán có thể xem như biến thiên liên tục có liên  
quan đến nồng độ và pH của dung dịch ngoài. Thêm các ion khác vào dung dịch,  
kết quả là ta có công thức thăng bằng mới mà trong đó một vài ion được thêm vào  
đó đi vào lớp khuếch tán ngoài và thay thế, hệ số tỉ lệ, các ion trước ngăn trong lớp  
đó. Đó kiểu khác với kiểu mạng tinh thể đầu tiên trong đó số tinh thể đổi chỗ thì  
được xác định không phụ thuộc vào pH hoặc nồng độ, nhưng trái lại trao đổi lớp  
kép lại phụ thuộc vào hai tham số. Trong nhiều công thức cả hai loại trao đổi thể  
xảy ra đồng thời.  
Theo lý thuyết màng Donnan liên quan đến phân bố của các ion trong hai bên  
của một màng mà một bên có chứa chất điện phân, một bên chứa các ion của nó  
không thể khuếch tán xuyên qua màng. Tương tự trao đổi ion là một cấu trúc nhựa  
cách ly được các ion trao đổi được mà các ion đó không thể khuếch tán; ví dụ, trong  
chất axit mạnh nhựa trao đổi cation, sunphonat, hoàn toàn tiếp tục trong pha nhựa,  
thì nó không khuếch tán ion. Với một dung dịch axit HCl theo lý thuyết Donnan thì  
liên quan đến nồng độ, với scân bằng như sau :  
    
Cl  
    
H Cl  
H
(6)  
e   
e  
r   
r  
Trong đó :  
Dấu ngoặc chỉ nồng độ ion trong dung dịch ngoài (e) và dung dịch trong là (r).  
Trung hoà điện tích (electroneutrality) yêu cầu :  

Tải về để xem bản đầy đủ

doc 87 trang yennguyen 18/12/2024 50
Bạn đang xem 30 trang mẫu của tài liệu "Đề tài Hóa phóng xạ và phép đo sự phóng xạ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docde_tai_hoa_phong_xa_va_phep_do_su_phong_xa.doc