Luận văn Quản lý môi trường tài nguyên thiên nhiên và vật liệu

GIỚI THIỆU  
TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG  
Khoa Kỹ Thuật - Công nghệ - Môi trường  
Bài giảng  
ĐỀ TÀI:  
QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG TÀI NGUYÊN THIÊN  
NHIÊN VÀ VẬT LIỆU  
1
MỤC LỤC  
2
Chương I: MÔI TRƯỜNG, HỆ SINH THÁI VÀ TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN  
I.Đại cương về môi trường  
1. Khái niệm về Môi trường:  
Theo nghĩa rộng nhất thì “Môi trường” tập hợp các điều kiện và các điều kiện  
này tồn tại diễn biến trong môi trường như môi trường vật lý, môi trường  
pháp lý, môi trường kinh tế, v.v… Thực ra, các thành phần như khí quyển, thủy  
quyển, thạch quyển tồn tại trên Trái đất đã từ rất lâu, nhưng chỉ khi có mặt các  
cơ thể sống thì chúng mới trở thành các thành phần của môi trường sống.  
Môi trường sống tổng các điều kiện bên ngoài có ảnh hưởng tới sự sống và  
sự phát triển của các cơ thể sống.  
Đôi khi người ta còn gọi khái niệm môi  
trường sống bằng thuật ngữ môi sinh (living environment).  
Môi trường sống của con người tổng hợp các điều kiện vật lý, hóa học, sinh  
học, hội bao quanh con người và có ảnh hưởng tới sự sống, sự phát triển  
của từng cá nhân và toàn bộ cộng đồng người. Thuật ngữ “Môi trường” thường  
dùng với nghĩa này. Môi trường sống của con người vũ trụ bao la, trong đó có  
hệ Mặt Trời và Trái  
Đất. Các thành phần của môi trường sống có  
ảnh hưởng  
trực tiếp tới con người trên Trái Đất gồm bốn quyển: sinh quyển, thủy quyển, khí  
quyển, thạch quyển.  
thể nêu ra một định nghĩa chung về môi trường như sau:  
Môi trường tập hợp các yếu tố tự nhiên và xã hội bao quanh con người có  
ảnh hưởng tới con người và tác động qua lại với các hoạt động sống của con  
người như: không khí, nước, đất, sinh vật, hội loài người v.v…  
Theo định nghĩa về môi trường trong từ điển Webster thì “ Môi trường tổng  
hợp tất cả các điều kiện bên ngoài và có ảnh hưởng tới đời sống sự phái  
triển của sinh vật, các hoạt động của con người cộng đồng để cùng tồn tại và  
phát triển”.  
2. Thành phần môi trường:  
Môi trường thể chia ra làm môi trường tự nhiên và môi trường nhân tạo với  
các thành phần của chúng như sau:  
3
       
Bảng 1. Các thành phần môi trường  
Môi trường tự nhiên  
Môi trường nhân tạo  
Không khí  
Nước  
Các phương tiện giải trí  
Môi trường lao động  
Chất thải rắn  
Nhà ở  
4
Tiếng ồn  
Công nghệ  
Bức xạ  
Mỹ quan  
Đất  
Giao thông  
Rừng  
Chất lượng nguyên liệu  
Hàng tiêu dùng  
Sinh vật hoang dã  
Không gian sinh sống  
Mỹ quan  
Khoáng sản  
Thời tiết  
Môi trường sống của con người là trái đất, nó bao gồm cả các thành phần lý,  
hóa và sinh như là: không khí, đất đá, khoáng sản, nước, động vật thực vật.  
Khoa học về môi trường tìm hiểu về môi trường sống của con người và các thay  
đổi của môi trường do tác động trực tiếp hoặc gián tiếp của con người. Các tác  
động này làm thay đổi các quyển (thạch quyển, khí quyển, thủy quyển và sinh  
quyển) tăng sự thay đổi của hệ sinh thái trong một khoảng thời gian quan sát  
nhất định. Các tác động bất lợi đến môi trường là các hoạt động của con người  
gây nên những tác hại quan trọng lên thành phần, khả năng tự hồi phục sản  
xuất của hệ sinh thái tự nhiên, hệ sinh thái có quản hoặc các hoạt động kinh  
tế, hội, sức khỏe và phúc lợi cộng đồng. Đồng thời tìm ra các biện pháp  
giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường.  
để  
Tất cả chúng ta đều nhận thức được rằng môi trường sống của chúng ta không  
còn được như xưa, đang bị ô nhiễm do các hoạt động của con người. Sự ô  
nhiễm không khí do khí thải các nhà máy, xe cộ…; sự ô nhiễm các nguồn nước  
sinh hoạt do nước thải sinh hoạt, sản xuất… những gì mà bất cứ một người  
bình thường nào cũng thể cảm nhận được.  
3. Ô nhiễm môi trường hậu quả:  
Ô nhiễm môi trường sự làm biến  
đối tính chất của môi trường, vi phạm tiêu  
chuẩn môi trường. Ô nhiễm môi trường gây tổn hại đến sức khỏe con người,  
tác động xấu đến sự tồn tại và phát triển của sinh vật, tài nguyên thiên nhiên. Ví  
dụ: vứt rác bừa bãi sinh ra ruồi nhặng, ruồi nhặng nơi các sinh vật truyền  
5
 
nhiễm sinh sống, cuối cùng gây bệnh cho con người.  
Tiêu chuẩn môi trường: những qui định (hay giới hạn cho phép) về các thành  
phần (chỉ tiêu) được phép thải ra trong môi trường. dụ: tiêu chuẩn dành cho  
nguồn nước thải (bao gồm loại A (nước sinh hoạt) loại B (nước công  
nghiệp)), tiêu chuẩn nước cấp,…  
Bảng 2. Mẫu qui định về chuẩn thải  
6
Chỉ tiêu  
Loại A  
Loại B  
4. Khả năng tlàm sạch của môi trường:  
Môi trường khả năng tự làm sạch riêng. Trong bản thân mỗi thành phần môi  
trường đất, nước và không khí tồn tại khả năng tự làm sạch một cách tự nhiên  
và duy trì trạng thái n  
định. Nếu thải vào môi trường các loại chất thải vượt  
ngưỡng tự làm sạch thì môi trường sẽ bị ô nhiễm. Một thông số quan trọng để  
đánh giá khả năng tự làm sạch của môi trường nước là hàm lượng oxy hòa tan  
trong nước (DO), nước khả năng tự làm sạch cao thường nồng độ oxy  
hòa tan tiến dần đến 8 mg/L.  
5. Các học thuyết về môi trường:  
Có 3 học thuyết về môi trường:  
Phát triển: sự sử dụng các nguồn tài nguyên hay các thành phần môi  
trường để phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế không quan tâm đến  
các vấn đề môi trường.  
Bảo vệ: hướng giữ gìn tài nguyên một cách nghiêm ngặt không phục vụ  
cho phát triển kinh tế.  
Bảo tồn: hướng kết hợp hài hòa giữa phát triển bảo vệ. Xu thế hiện  
tại của quan điểm này là phát triển bền vững, đảm bảo yêu cầu về phát  
triển kinh tế bảo vệ môi trường.  
II.Hệ sinh thái  
1. Giới thiệu:  
Ngày nay, người ta thường xét vấn  
đề theo một hệ thống, “hệ thống một  
chuỗi sự vật hoặc hiện tượng có liên quan với nhau và có những hoạt  
động  
chung”. Tùy theo những chức năng cơ bản, hệ thống thể được phân thành 3  
7
       
loại:  
Hệ thống lập: có ranh giới rõ ràng và không trao đổi vật chất năng lượng  
với bên ngoài  
Hệ thống kín: ranh giới của hệ thống ngăn cản việc trao đổi vật chất nhưng  
không ngăn cản việc trao đổi năng lượng.  
Hệ thống hở: ranh giới mở cho phép trao đổi vật chất năng lượng tự do với  
các hệ thống chung quanh.  
Theo cách phân loại này thì trái đất và môi trường của nó là một hệ thống hở  
với sự trao đổi năng lượng thông qua bức xạ phản xạ ánh sáng mặt trời, trao  
đổi vật chất thông qua các thiên thạch rơi vào mặt đất việc phóng các con tàu  
vũ trụ. Tuy nhiên, do trái đất một kích cỡ nhất định một nguồn tài nguyên  
cố định cộng thêm vào hiện tượng trao đổi vật chất diễn ra không đáng kể nên  
tốt hơn nên coi nó là một hệ thống kín.  
8
Khoa học môi trường một khoa học nghiên cứu về những hệ thống. Một hệ  
sinh thái được coi là một hệ thống. Một hệ sinh thái bao gồm động vật, thực vật  
và môi trường học mà trong  
đó các sinh vật sinh sống và phát triển.  
Để dễ  
dàng cho việc nghiên cứu người ta thường coi một hệ sinh thái là một hệ thống  
kín mặc dầu đó sự đơn giản hóa tối đa. dụ: một khu rừng trong một thung  
lũng nhỏ thường được xem như một hệ sinh thái. Thung lũng được coi như là  
một ranh giới rất ít sinh vật di vào hoặc ra khỏi nó. Trong khu rừng, vòng  
đời của thực động vật được cân bằng do đó các chất dinh dưỡng được quay  
vòng trong hệ thống để các cộng đồng sinh vật sinh tồn. Tuy thung lũng được  
coi là hệ thống kín, các nhà sinh vật học coi ranh giới đó chỉ có ý nghĩa tương  
đối. Động vật di chuyển từ nơi này sang nơi khác, hạt của các thực vật phát tán  
theo gió, không khí được sử dụng chung bởi tất cả các sinh vật sống trên trái  
đất. Sinh thái học là khoa học nghiên cứu sự chuyển đổi năng lượng vật chất  
trong hệ sinh thái và tác động qua lại giữa thực động vật trong hệ sinh thái.  
Hệ sinh thái biến động lớn về kích cỡ, địa điểm, kiểu thời tiết, loại động vật và  
thực vật. Nhưng chúng có đặc điểm chung là, trong hệ sinh thái, các thực vật  
dùng năng lượng mặt trời để chuyển hóa các nguyên tố trong môi trường thành  
năng lượng trong các tế bào bằng quá trình quang hợp. Sau đó, các động vật dị  
dưỡng sẽ ăn các sinh vật tự dưỡng… tạo thành một chuỗi thức ăn và thông qua  
chuỗi thức ăn năng lượng được chu chuyển từ dạng này sang dạng khác  
hoặc từ cơ thể này sang cơ thể khác.  
.2. Các thành phần của hsinh thái:  
Một hệ sinh thái không phải chỉ có các sinh vật nó còn bao gồm các thành phần  
học của môi trường mà nó có tác động qua lại. Các sinh vật và các sản phẩm  
của chúng được gọi là thành phần sống của hệ sinh thái. Như vậy nó bao gồm  
động vật, thực vật, nấm, vi sinh vật cả các chất thải của chúng như lá, cành  
rơi rụng, phân, nước tiểu của động vật cả thân thể của chúng khi chúng chết  
đi.  
Các thành phần vật của môi trường như ánh sáng, chất dinh dưỡng, không  
khí, đất, nước, khí hậu được gọi là thành phần “không sống” của hệ sinh thái.  
Tùy theo mức độ ảnh hưởng của con người lên hệ sinh thái, người ta phân chia  
9
 
chúng thành các hệ thống sau:  
Hệ thống tự nhiên: là các hệ thống hoàn toàn không bị ảnh hưởng của các  
hoạt động của con người. dụ như những rừng mưa nhiệt đới còn sót lại.  
Hệ thống đã được sửa đổi: là các hệ thống đã bị ảnh hưởng của con người ở  
một mức độ nào đó. dụ như hệ thực vật ở những khu vực thưa dân.  
Hệ thống được kiểm soát: hệ thống chịu nhiều ảnh hưởng của các hoạt động  
kiểm soát của con người. dụ như hệ thống canh tác.  
Các thành phần “không sống” của hệ sinh thái:  
Ánh sáng mặt trời: mặt trời nguồn năng lượng cho hầu hết các hệ sinh  
thái. Một phần năng lượng của ánh sáng mặt trời sẽ được hấp thụ qua lá của  
các thực vật và quá trình quang hợp sẽ chuyển đổi thành các vật chất giàu năng  
lượng (ví dụ như đường). Sau đó, đường và các vật chất khác được sử dụng  
10  
làm năng lượng cho thực vật và cho động vật ăn thực vật. Mặt trời còn cung cấp  
năng lượng để sưởi ấm địa cầu. Nếu không có mặt trời nhiệt độ của địa cầu sẽ  
hạ thấp, sẽ không còn  
cần thiết cho cuộc sống.  
Các dưỡng chất:  
đủ nhiệt lượng cho các phản  
ứng hóa học phức tạp  
cơ thể sống cần phải  
được cung cấp đều  
đặn các dưỡng  
chất để phát triển, sinh sản điều hòa các hoạt động của cơ thể. Một số dưỡng  
chất sẵn dưới dạng các chất khí trong khí quyển, một vài chất khác có trong  
nước đất. Các thành phần chính của nó là cacbon, hydro, oxy, nito, photpho,  
lưu huỳnh. Nhưng các cơ thể sống còn cần thêm nhiều loại dưỡng chất khác để  
sinh trưởng bình thường.  
Không khí: bầu khí quyển chứa chủ yếu các phân tử oxy và nitơ, một ít CO2,  
hơi nước và các chất khí khác. Các cơ thể sống trao đổi oxy và cacbonic với khí  
quyển. Mặc nitơ hiện diện trong không khí với nồng độ cao nhưng hầu hết  
các động thực vật (trừ các vi sinh vật cố định đạm) không thể sử dụng trực  
tiếp chỉ sử dụng được nó thông qua các hợp chất của nó trong đất.  
Đất: đất bao gồm bụi của hiện tượng xâm thực đá núi, khoáng và các động  
thực vật bị thối rữa. Thành phần hữu cơ của đất  
đảm nhiệm nhiều nhiệm vụ.  
Đầu tiên nó thay đổi cấu trúc lý học của đất làm cho độ giữ nước của đất tốt  
hơn. Kế đến rễ của những thực vật đang sống làm cho đất tránh được xói mòn  
do mưa. Các sinh vật trong đất cung cấp các chất dinh dưỡng cho cây. 1kg đất  
màu mỡ thể chứa 2000 tỉ vi khuẩn, 400 triệu thể nấm, 50 triệu tế bào tảo  
và 300 triệu nguyên sinh động vật, nhiều trùng đất, côn trùng, mối, các vi sinh vật  
giúp cho quá trình phân hủy chất hữu cơ để cung cấp chất dinh dưỡng cho cây,  
bản thân chúng khi chết đi cũng cung cấp một lượng lớn chất dinh dưỡng.  
Nước: nước đã hiện diện khắp nơi trên hành tinh của chúng ta khi sự sống  
còn chưa hiện diện. Ánh sáng mặt trời làm cho nước bốc hơi. Sau  
đó nước  
ngưng đọng lại thành mưa hay tuyết, sau đó chúng lại trở về sông hay biển bằng  
trọng lực hay theo dòng chảy. Các sinh vật cũng đóng vai trò quan trọng trong  
chu trình nước, nước ở trong đất được các thực vật rút lên để bảo đảm cho đời  
sống của chúng và một lượng lớn sẽ bốc hơi qua bề mặt của lá.  
Khí hậu: sự kết hợp giữa nhiệt độ ẩm độ ở một khu vực tạo nên khí hậu  
của khu vực và các mùa trong năm. Khí hậu ảnh hưởng lên tính chất của hệ sinh  
11  
thái, ví dụ như gấu tuyềt thì không thể sống  
không thể sống được ở rừng mưa nhiệt đới.  
sa mạc, các loại xương rồng  
3. Mối quan hệ năng lượng trong một hệ sinh thái  
Quang hợp:  
Thực vật cơ sở của sự sống trên trái đất. Nó có khả năng hấp thu năng lượng  
mặt trời để tạo nên các tế bào của nó. Quá trình này gọi là quá trình quang hợp,  
được biểu diễn qua phương trình sau đây:  
Đường (glucose) được tạo ra trên sẽ được tiếp tục chuyển đổi thành tinh bột,  
cellulose và mô thực vật. Do đó thực vật được gọi là sinh vật tự dưỡng hay là  
“sinh vật sản xuất” trong hệ sinh thái.  
12  
 
Để hiểu rõ thêm quá trình quang hợp ta làm một thí nghiệm lấy một hạt giống bí  
rợ gieo vào một chậu đất khô (cân đất hạt giống) tưới nước chăm sóc cho  
cây phát triển. Ta thấy cây phát triển nhưng đất không hao đi. Khi thu hoạch nếu  
ta sấy khô tất cả cây bí rợ và cân chung với đất ta thấy tổng trọng lượng đạt  
được nặng hơn tổng trọng lượng ban đầu nhiều. Điều đó chứng tỏ rằng rợ đã  
lấy CO2 và H2O và các hợp chất nghèo năng lượng trong đất để tổng hợp tế  
bào cơ thể của chúng (hợp chất giàu năng lượng).  
hấp:  
Thực vật động vật sử dụng năng lượng dự trữ ở dạng đường (glucose) và  
các thành phần khác để duy trì các hoạt động cơ thể. Quá trình đó được gọi là  
hấp được như là quá trình thiêu hủy chất hữu cơ chậm và có kiểm soát.  
Động vật không thể tự tạo nên thực phẩm cho chúng mà chúng phải ăn các sinh  
vật khác để lấy năng lượng tồn tại. Do đó còn được gọi là “sinh vật tiêu thụ”  
hay là sinh vật dị dưỡng. Sinh vật dị dưỡng chia thành hai nhóm lớn. Động vật  
ăn cỏ hay là “sinh vật tiêu thụ cấp I” nó ăn thực vật trực tiếp. “Sinh vật ăn thịt” ăn  
thịt các loài động vật hay còn gọi là “sinh vật tiêu thụ cấp II”. Sinh vật tiêu thụ  
cấp III là các sinh vật tiêu thụ các sinh vật tiêu thụ cấp II và cứ tiếp tục như thế.  
Việc sử dụng năng lượng trong một hệ sinh thái:  
Giả sử một hệ sinh thái nhận 1000 calo năng lượng mặt trời trong 1 ngày.  
Phần lớn năng lượng này bức xạ ngược vào khí quyển hoặc bị trái đất hấp thu  
trữ dưới dạng nhiệt hoặc để làm bốc hơi nước, chỉ một phần rất nhỏ được  
thực vật sử dụng. Trong phần năng lượng được thực vật sử dụng, một ít được  
chúng dùng cho quá trình hô hấp của bản thân chúng. Trong 1000 calo năng  
lượng ban đầu chỉ khoảng 10 calo được trữ lại dưới dạng các chất giàu năng  
lượng trong các mô thực vật động vật thể sử dụng được dưới dạng thực  
phẩm. Như vậy 990 calo còn lại đi đâu? Bây giờ bạn đã thể tự trả lời được  
câu hỏi này.  
Bây giờ giả sử như một động vật ăn cỏ (ví dụ là nai) ăn một loại thực vật có  
13  
chứa năng lượng là 10 calo, do quá trình biến dưỡng của nai không đạt được  
hiệu suất 100% và nai cũng cần một ít năng lượng cho các hoạt động cơ thể nó,  
do đó trong 10 calo đó chỉ khoảng 1 calo được trữ dưới dạng trọng lượng cơ  
thể. Khi một con báo ăn thịt con nai thì năng lượng mà nó đạt được là do sự  
chuyển hóa năng lượng từ năng lượng mặt trời sang năng lượng chứa trong mô  
thực vật rồi năng lượng trong thịt nai. Những mối liên hệ trên có thể đơn giản  
qua hình.  
14  
Hình 1. Sự chuyển hoá năng lượng từ ngũ cốc sang con người  
Giả sử một nông dân thu hoạch đậu xanh và bắp. Ông ta có thể ăn trực tiếp  
đậu bắp hoặc dùng chúng để nuôi bò. Một người cần khoảng 2500 calo mỗi  
ngày vì vậy khi thu hoạch  
được một sản phẩm có giá trị 25000 calo thì đủ  
để  
cung cấp năng lượng cho 10 người trong một ngày. Tuy nhiên nếu dùng nó để  
nuôi bò thì khoảng 90% năng lượng từ thịt chỉ  
đủ để cung cấp cho một  
người.  
Chuỗi thức ăn mạng lưới thức ăn:  
Chuỗi thức ăn:  
Định nghĩa: Chuỗi thức ăn hệ thống chuyển hóa năng lượng dinh dưỡng từ  
nguồn đi qua hàng loạt sinh vật được tiếp diễn bằng cách một số sinh vật này  
dùng những sinh vật khác làm thức ăn.  
Trong hệ sinh thái, năng lượng sẽ được chuyển vận qua nhiều nhóm sinh vật.  
Một sinh vật vừa là sinh vật ăn mồi đồng thời cũng là sinh vật mồi. Sự phân chia  
nhóm sinh vật không phải theo loài mà theo cách thức chúng sử dụng thức ăn.  
Các sinh vật có cùng nhu cầu thực phẩm thì được xếp vào cùng một mức dinh  
dưỡng.  
15  
Có 2 loại chuỗi thức ăn: chuỗi thức ăn chăn nuôi và chuỗi thức ăn phế thải.  
Chuỗi thức ăn chăn nuôi (grazer food chain): là chuỗi bắt đầu từ thực vật,  
đến động vật ăn thực vật, đến động vật ăn động vật. dụ: Một chuỗi  
thức ăn ở vùng ranh giới phân bố phía Bắc của rừng và vùng băng vĩnh  
cữu như sau: Địa y – là sự cộng sinh giữa tảo nấm - chiếm vai trò  
quan trọng cùng với cỏ, cói, cấu thành khẩu phần thức ăn của hươu  
vùng lãnh nguyên và hươu lại thức ăn cho chó sói và người. Chuỗi  
thức ăn ở đây tương đối ngắn.  
16  
Chuỗi thức ăn phế liệu (petritus food chain): là chuỗi trong đó các sinh vật  
sử dụng phân và xác sinh vật làm thức  
ăn. Trong chuỗi thức  
ăn phế  
liệu, người ta chia ra làm hai loại sinh vật tiêu thụ:  
• Sinh vật lớn tiêu thụ (macroconsumers) là các côn trùng ăn phân, ăn xác động  
thực vật và các động vật ăn xác khác, ví dụ: bọ hung, bọ ăn xác.  
• Sinh vật bé tiêu thụ (microconsumers) là các vi khuẩn nấm, chịu trách  
nhiệm phân hủy chất hữu cơ trong phân và xác động thực vật tạo thành các chất  
dinh dưỡng nguồn thức ăn cho thực vật.  
Các chuỗi thức ăn là con  
đường chuyển chất dinh dưỡng năng lượng trong  
được thực vật sử dụng, biến đổi giữ lại  
hệ sinh thái. Năng lượng mặt trời  
trong các phần tử hữu cơ, sau đó đi vào chuỗi thức ăn chăn nuôi và chuỗi thức  
ăn phế liệu. Ngoài ra thực vật còn sử dụng các chất dinh dưỡng cơ như N,  
P, Mg,… trong đất để tạo thành chất dinh dưỡng hữu cơ. Các động vật ăn thực  
17  
vật đưa các chất dinh dưỡng này vào chuỗi thức  
ăn chăn nuôi. Các chất dinh  
dưỡng trở lại chuỗi sau khi được phân hủy trong chuỗi phế thải (sơ đồ1).  
Bậc dinh dưỡng: Các nhà sinh thái học chia động vật thành các nhóm tiêu thụ  
theo vị trí của chúng trong chuỗi thức ăn:  
- Trong chuỗi thức ăn chăn nuôi, động vật ăn thực vật là sinh vật tiêu thụ bậc I  
bởi vì chúng là nhóm sinh vật  
đầu tiên ăn thực vật, nhóm sinh vật  
ăn sinh vật  
tiêu thụ bậc nhất là sinh vật tiêu thụ bậc II.  
- Thứ tự các nhóm trong chuỗi thức ăn gọi bậc dinh dưỡng của nhóm đó. Bậc  
dinh dưỡng thứ nhất vị trí đầu tiên trong chuỗi thức  
ăn, bậc của các sinh  
vật sản xuất hay tự dưỡng, thường thực vật hay tảo. Sinh vật tiêu thụ bậc I  
chiếm vị trí thứ 2 trong chuỗi thức ăn, tức năm ở bậc dinh dưỡng thứ 2…  
18  
Hình 2. Mạng lưới thức ăn điển hình  
Mạng lưới thức ăn:  
Trong thực tế, các chuỗi thức ăn không tồn tại riêng rẽ đan xen lẫn nhau.  
Chính sự đan xen các chuỗi thức ăn tạo thành mạng lưới thức ăn. Mạng lưới  
thức ăn cho ta hình ảnh hoàn chỉnh về nhóm, sinh vật nào  
ăn sinh vật nào.  
Trong mạng lưới thức ăn ta cũng thể phân chia các bậc dinh dưỡng. Tuy  
nhiên có nhiều loài chim không chỉ thuộc một bậc dinh dưỡng.  
Chuỗi thức ăn chức năng phân bố lượng hữu cơ chuyển hóa các dạng  
chất hữu cơ trong hệ sinh thái. Ngoài ra, đây còn là một cơ chế để duy trì sự  
cân bằng của hệ sinh thái. Ở hệ sinh thái trẻ đơn giản thì chuỗi thức ăn thường  
sự tham gia của số ít loài và những hệ sinh thái này thường sự biến động  
19  
quần thể rất lớn, nó có thể thể hiện sự cực thịnh đồng thời cũng thể bị suy  
tàn rất nhanh. Trái lại ở những hệ sinh thái ổn định, phát triển, mạng lưới thức  
ăn thường phức tạp, có quan hệ rất nhiều với quần thể khác. Qua cơ chế này,  
sẽ điều kiện tốt hơn để kiểm soát sự biến động quần thể, giữ cân bằng  
của hệ sinh thái.  
20  
Ý nghĩa của việc nghiên cứu chuỗi thức  
ăn đối với hoạt động bảo vệ môi  
trường:  
a. Lây lan ô nhiễm, độc chất và gây bệnh qua con đường thức ăn:  
Việc nghiên cứu chuỗi thức ăn rất có ý nghĩa đối với các hoạt động bảo vệ môi  
trường mà quan trọng nhất phải nhắc đến hiện tượng "tích tụ sinh học". Qua  
hiện tượng này các chất độc sẽ được các sinh vật ở các bậc dinh dưỡng giữ lại,  
tích tụ dần và gia tăng hàm lượng chất độc hại ở các nhóm dinh dưỡng phía  
sau, các nhóm sinh vật tiêu thụ cao hơn và có thể  
đạt đến mức gây hại cho  
sự phát triển cơ thể của các động vật và con người. dụ: DDT  
b. Cân bằng sinh thái và bảo vệ hệ sinh thái:  
Khi nghiên cứu chuỗi thức ăn, thông qua các loại tháp sinh thái, chúng ta có thể  
đánh giá mức độ cân bằng sinh thái,  
điều đó rất quan trọng. dụ như nạn  
chuột phá hoại mùa màng ở nước ta gây thiệt hại hàng tỷ đồng là do chúng ta  
giết chết nhiều rắn và mèo gây mất cân bằng sinh thái. Tiến bộ khoa học kỹ  
thuật tạo ra những hóa chất mới nhưng chưa biện pháp hữu hiệu khử độc  
tính của đối với môi trường, đặc biệt những chất phân hủy ảnh hưởng đến  
khả năng tự làm sạch của môi trường tự nhiên.  
Những đóng góp vào hệ sinh thái của các sinh vật bao gồm các loại thực phẩm  
21  
từ đất liền ra biển, sự sản xuất và duy trì oxgen và các hơi khác trong không khí,  
sự lọc sự thải các chất độc, sự thối rửa của các chất thừa, những chất dinh  
dưỡng chủ yếu, những bệnh tật mang đến, sự duy trì của kho vật chất di truyền,  
sự tích trữ năng lượng mặt trời dưới dạng năng lượng hóa học trong thực  
phẩm, gỗ và nhiên liệu dưới đất.  
Do đó, việc bảo vệ thiên nhiên, vệ sinh môi trường, chống ô nhiễm sử dụng  
hợp lý tài nguyên có một tầm quan trọng thực sự đối với thế giới ngày nay.  
4. Các ví dụ về hệ sinh thái:  
a. Các hệ sinh thái tự nhiên:  
Sinh quyển một hệ sinh thái khổng lồ, duy nhất của hành tinh. Nó được cấu  
tạo bởi tổ hợp các hệ sinh thái dưới đất, trên mặt đất dưới nước. Chúng có  
mối quan hệ gắn với nhau một cách mật thiết bằng chu trình vật chất và  
22  
 
dòng năng lượng ở phạm vi toàn cầu. Do đó, ta có thể tách hệ thống lớn nêu  
trên thành những hệ  
độc lập tương  
đối, mặc dù trên một dãy liên tục của tự  
nhiên, ranh giới của phần lớn các hệ thống không rõ ràng. Dưới đây, chúng ta  
sẽ quan sát một vài hệ sinh thái điển hình như một dụ.  
Rừng quốc gia Cúc Phương: Rừng Cúc Phương một bộ phận rất nhỏ của khu  
sinh học rừng mưa nhiệt đới, ở  
biển trong đai khí hậu nhiệt  
độ cao trung bình 300-400m so với mực nước  
đới gió mùa Đông nam Châu Á. Những nét nổi bật  
của hệ sinh thái rừng quốc gia Cúc Phương được biểu hiện như sau:  
Thành phần sinh giới rất  
họ thực vật; 71 loài và phân loài thú, trên 320 loài và phân loài chim, 33  
loài bò sát, 16 loài ếch nhái, hàng ngàn loài loài chân khớp những  
loài không xương sống khác, sống ở mọi cảnh sống khác nhau. Trong  
chúng nhiều loài còn sót lại ở Kỷ thứ 3 như cây Kim giao (Podocarpus  
đa dạng, gồm 1944 loài thuộc 908 chi của 229  
fleuryi), những loài có ý nghĩa trong nghiên cứu tiến hóa như quyết thân  
gỗ (Cyathea podophylla), và C.contaminans; nhiều loài  
hữu (endemic) như gấu ngựa (Selenarctos thibetanus), vượn  
động vật đặc  
đen  
(Hylobates concolor), voọc quần  
đùi trắng (Trachipethecus francoisi  
delacouri), cá niếc hang (Silurus cucphuongensis).  
Thảm rừng gồm nhiều tầng, tầng vượt tán với cây cao 15-30m hay 40-  
50m, điển hình chò chỉ (Parashorea chinensis), gội nếp (Aglaia  
gigantea), vù hương (Ciannamomun balansae), lát hoa (Chukresia  
tabularis), mun (Diospyros mun) v.v… Những hiện tượng sinh thái cơ  
bản của rừng mưa nhiệt đới thể hiện rất ở đây như sự đa dạng của  
dây leo thân gỗ (20 loài), nhiều cây sống phụ sinh, khí sinh, nhiều cây  
“bóp cổ” thuộc chi Đa (Ficus), chi Chân chim (Scheffleura)…, nhiều cây  
kí sinh thuộc họ Tầm gửi (Loranthaceae), nhiều cây có rễ bạnh lớn như  
sấu cổ thụ (Dracontomelum duperreanum)… Do cây sống chen chúc,  
đan xen nhau nên có nhiều loài động vật sống trên tán cây (khỉ, voọc,  
sóc bay, cầy bay…). Thân cây, hốc cây còn là nơi sinh sống của các  
loài côn trùng, ếch nhái, bò sát… Thảm rừng mục chứa đựng nhiều  
đại diện của động vật không xương sống, nấm mốc v.v…  
23  
Rừng Cúc Phương đang tồn tại ở trạng thái cân bằng ổn định, do đó, cấu trúc  
về thành phần loài, sự phân hóa trong không gian, cũng như cấu trúc về các  
mối quan hệ sinh học những hoạt động chức năng rất đa dạng phức tạp.  
Hồ tự nhiên là một dụ điển hình cho các hệ sinh thái ở nước. Tất nhiên, cũng  
như các hệ sinh thái trên cạn, hồ nhận nguồn vật chất từ bên ngoài do sự bào  
mòn mặt đất sau các trận mưa… năng lượng từ bức xạ mặt trời. Khí dioxyt  
cacbon (CO2), muối khoáng và nước là nguyên liệu thiết yếu cho các loài thực  
vật ở nước hấp thụ để tạo nên nguồn thức ăn sơ cấp là tinh bột thông qua quá  
trình quanh hợp. Những loài  
(Cladocera, Copepoda)… sử dụng tảo sống nổi (Phytoplankton), cá trắm cỏ…  
ăn cỏ nước để tạo nguồn thức ăn động vật đầu tiên cho các vật dữ khác và  
người. Tất cả những chất bài tiết, chất trao đổi và xác sinh vật bị phân hủy bởi  
động vật thủy sinh, chủ yếu là giáp xác thấp  
24  
số các vi sinh vật yếm khí hay kỵ khí đến giai đoạn khoáng hóa cuối cùng. Ở  
chúng, một phần thể lắng xuống đáy, còn phần lớn lại tham gia vào quá trình  
tổng hợp các chất bởi các loài thực,  
động vật trong hồ. Thế vật chất  
được  
quay vòng và năng lượng được biến đổi qua các bậc dinh dưỡng, cái được gọi  
điểm dừng của vật chất, nhờ đó mà các loài và con người mới sản phẩm  
để khai thác làm thức ăn.  
b. Các hệ sinh thái nhân tạo:  
Các hệ sinh thái nhân tạo tức những hệ do con người tạo ra. Chúng cũng rất  
đa dạng về kích cỡ, về cấu trúc..., lớn như các hồ chứa, đồng ruộng, nương rẫy  
canh tác, các thành phố  
đô thị... nhỏ như những hệ sinh thái thực nghiệm  
(một bể cảnh, một hệ sinh thái trong ống nghiệm...). Nhiều hệ cấu trúc đa  
dạng chẳng kém các hệ sinh thái tự nhiên (như thành phố, hồ chứ...), song  
cũng những hệ cấu trúc đơn giản, trong đó, quần với loài ưu thế được  
con người lựa chọn cho mục  
đích sử dụng của mình, chẳng hạn như  
đồng  
ruộng, nương rẫy... Những hệ như thế thường không ổn định. Sự tồn tại và phát  
triển của chúng hoàn toàn dựa vào sự chăm sóc của con người. Buông ra hệ sẽ  
suy thoái và nhanh chóng  
được thay thế bằng một hệ tự nhiên khác  
ổn định  
hơn.  
III.Tài nguyên thiên nhiên  
1 Định nghĩa tài nguyên:  
Các nguồn của cải có trong môi trường mà con người thể sử dụng phục vụ  
cuộc sống sự phát triển của mình.  
2 Đặc điểm chung và phân loại tài nguyên:  
25  
Sơ đồ 3. Phân loại tài nguyên của trái Đất  
Di sản văn hóa.  
26  
Cơ sở pháp luật, hội, làng xóm, nhà nước  
Tài nguyên là đối tượng sản xuất của con người. hội loài người càng phát  
triển thì số loại hình tài nguyên và số lượng mỗi loại tài nguyên được con người  
khai thác và sử dụng ngày càng gia tăng, trong giai đoạn hiện nay, con người có  
khả năng khai thác và sử dụng hầu hết các dạng tài nguyên có trên trái đất.  
Tài nguyên có thể chia ra làm 2 loại lớn: tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên xã  
hội. Trong khoa học môi trường tài nguyên thiên nhiên được chia thành 2 loại:  
tài nguyên tái tạo và tài nguyên không tái tạo.  
Tài nguyên tái tạo: loại tài nguyên mà sau một chu trình sử dụng sẽ trở  
lại dạng ban đầu. Tài nguyên tái tạo thể tự duy trì hoặc tự bổ sung  
một cách liên tục khi được quản một cách hợp lý. Tuy nhiên nếu sử  
dụng không hợp lý, tài nguyên tái tạo thể bị suy thoái không thể tái  
tạo. Vd: Tài nguyên nước thể bị ô nhiễm, tài nguyên đất thể bị  
mặn hóa, bạc màu, xói mòn…  
Tài nguyên không tái tạo: loại tài nguyên bị biến đổi mất đi sau một  
quá trình sử dụng. Tài nguyên không tái tạo thường giảm dần về số  
lượng sau quá trình khai thác và sửng dụng của con người.VD: tài  
nguyên khoáng sản sau khi khai thác từ mỏ, sẽ được chế biến thành  
các vật liệu của con người, sẽ cạn kiệt theo thời gian.  
3 Tài nguyên đất:  
a. Định nghĩa:  
Đất thường có hai nghĩa:  
Đất đai (land): là nơi ở, xây dựng cơ sở hạ tầng của con người.  
Thổ nhưỡng (soil): là mặt bằng để sản xuất nông lâm nghiệp.  
Đất ở nghĩa thổ nhưỡng vật thể thiên nhiên có cấu tạo phân lớp đặc biệt, hình  
thành do kết quả tác động của nhiều yếu tố: đá gốc, động thực vật, khí hậu, địa  
27  
 
hình và thời gian. Giá trị tài nguyên đất ở nghĩa thổ nhưỡng được tính bằng số  
lượng diện tích (ha, km2) và độ phì (độ màu mỡ thích hợp cho trồng cây công  
nghiệp lương thực).  
Đất đai một nghĩa khác của tài nguyên đất, xác định điều kiện cần thiết cho  
việc xây dựng các công trình hạ tầng cơ sở như: nhà ở, giao thông, mặt bằng  
sản xuất công nghiệp. Giá trị của đất đai được xác định bởi các điều kiện thuận  
lợi cho việc kiến thiết và xây dựng.  
b. Tài nguyên đất trên thế giới:  
Tài nguyên đất của thế theo số liệu thống năm 1980 như sau: tổng diện tích  
14.778 triệu ha, với 1.527 triệu ha đất đóng băng và 13.251 triệu ha đất không  
phủ băng. Trong đó, 12% tổng diện tích là đất canh tác, 24% là đồng cỏ, 32% là  
đất rừng và 32% là đất cư trú, đầm lầy. Diện tích đất khả năng canh tác là  
28  
3.200 triệu ha, hiện mới khai thác 1.500 triệu ha. Tỷ trọng đất đang canh tác trên  
đất khả năng canh tác các nước phát triển là 70%, các nước đang phát  
triển là 36%. Nguyên nhân dẫn đến việc chưa khai thác hết diện tích đất khả  
năng canh tác bao gồm: thiếu nước, khí hậu không phù hợp, thiếu vốn đầu tư.  
Tài nguyên đất của thế giới hiện đang bị suy thoái nghiêm trọng do: xói mòn,  
rửa trôi, bạc màu, nhiễm mặn, nhiễm phèn, ô nhiễm đất. Hiện nay 10% đất có  
tiềm năng nông nghiệp đang bị sa mạc hóa. Diện tích đất đang bị thoái hóa của  
Trung Quốc là 280 triệu ha, chiếm 30% diện tích lãnh thổ, bao gồm 36,67 triệu  
ha đất đồi bị xói mòn nặng, 6,67 triệu ha bị chua mặn, 4 triệu ha đất úng lầy. Ấn  
Độ hàng năm bị mất khoảng 3,7 triệu ha đất canh tác do các nguyên nhân trên.  
c. Tài nguyên đất ở Việt Nam:  
Đất tự nhiên ở Việt Nam có diện tích 33 triệu ha đứng hàng thứ 58 so với các  
nước trên thế giới, nhưng số dân đông thứ 13 trên thế giới nên số ha đất tự  
nhiên trên đầu người thấp chỉ 0,56 ha. Được phân bổ thành các loại như sau:  
Đất lâm nghiệp 11,8 triệu ha, chiếm 35,7%  
Đất nông nghiệp 7 triệu ha, chiếm 21%  
Đất chuyên dụng 1,4 triệu ha, chiếm 4,2%  
Đất chưa sử dụng 13 triệu ha, chiếm 39%  
Diện tích đất nông nghiệp bình quân đầu người ở Việt Nam hiện nay là 0,45 ha,  
thấp so với thế giới (chỉ cao hơn Nhật Bản).  
Đất trồng lúa là 4,7 triệu ha và hiện đang bị thu hẹp hàng năm, 11 triệu ha đất  
đồi núi đang bị xói mòn thành đồi trọc. Lượng đất rửa trôi hàng năm trên 1ha là  
150-170 tấn, tương ứng việc mất 560 kg hữu cơ, 199 kg  
đạm, 163 kg P, 28-  
33kg Ca, Mg hàng năm trên 1 ha đất canh tác. Lượng đất nhiễm mặn toàn quốc  
là 175.000 ha, nhiễm phèn 602.190 ha, xói mòn và lở đất 1 triệu ha.  
d. Ô nhiễm đất:  
Ô nhiễm môi trường đất được xem là tất cả các hiện tượng làm nhiễm bẩn môi  
trường đất bởi các chất ô nhiễm. Người ta có thể phân loại ô nhiễm môi trường  
29  
đất theo tác nhân hoặc nguồn gốc phát sinh chất ô nhiễm.  
Theo nguồn gốc phát sinh có thể chia ô nhiễm môi trường đất thành các loại: ô  
nhiễm do các chất thải sinh hoạt, ô nhiễm do các chất thải công nghiệp, ô nhiễm  
do hoạt động nông nghiệp, và các khu dân cư tập trung.  
Theo tác nhân gây ô nhiễm thể phân loại: ô nhiễm đất do tác nhân hóa học  
(phân bón hóa học thuốc bảo vệ thực vật), ô nhiễm  
đất do tác nhân vật lý  
(nhiệt độ, chất phóng xạ, xói mòn thoái hóa…), ô nhiễm đất do tác nhân sinh  
học (vi khuẩn, ký sinh trùng gây bệnh),…  
- Ô nhiễm đất do phân hóa học thuốc kích thích sinh trưởng:  
30  

Tải về để xem bản đầy đủ

doc 212 trang yennguyen 24/12/2024 120
Bạn đang xem 30 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Quản lý môi trường tài nguyên thiên nhiên và vật liệu", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docluan_van_quan_ly_moi_truong_tai_nguyen_thien_nhien_va_vat_li.doc