Luận văn Thiết kế sơ bộ tàu câu cá ngừ đại dương

Luận văn  
Thiết Kế Sơ Bộ Tàu Câu Cá  
Ngừ Đại Dương  
Chương 1 .  
TỔNG QUAN  
1.1 .KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGHỀ CÂU CÁ NGỪ ĐẠI  
DƯƠNG Ở NƯỚC TA  
1.1.1. Khái quát chung  
Nghề câu xuất hiện rất sớm và phổ biến với nhiều phương  
thức câu khác nhau như câu tay, câu cần, câu vàng v.v..với nghề câu  
khơi, ngay từ xa xưa ông cha ta dùng các loại tàu cỡ nhỏ chạy bằng  
sức gió để đi câu xa bờ. Từ đó qua quá trình phát triển, nghề câu có  
nhiều thay đổi cho phép tàu đi xa hơn. Nghề câu cá ngừ được du  
nhập vào Việt Nam vào những năm đầu của thế kỷ XX và hiện nay  
nghề này cung cấp cá xuất khẩu có giá trị và đang được phát triển  
mạnh ở nước ta.  
Trên thế giới, nghề câu cá ngừ đại dương đã có từ lâu với sản  
lượng lớn. Các nước có sản lựợng đánh bắt lớn là Nhật Bản, Mỹ,  
Tây Ban Nha, Pháp, Hàn Quốc…ở nước ta, nghề câu cá ngừ đại  
dương mới phát triển nên nó còn là một nghề hết sức mới mẻ và còn  
nhiều hạn chế làm ảnh hưởng đến sản lựợng cá ngừ đánh bắt được  
như: tàu thuyền có công suất thấp, không có tàu chuyên dùng, kỹ  
thuật đánh bắt chưa cao v.v.. tuy vậy sản lượng cá ngừ đại dương  
khai thác được vẫn chiếm một phần lớn trong tổng sản lựợng thủy  
sản đánh bắt đựơc từ nghề đánh bắt xa bờ hàng năm của nước ta.  
Nghề câu cá ngừ đại dương ở nước ta phát triển mạnh ở các  
tỉnh ven biển miền Trung và miền Nam Trung Bộ như, Đà Nẳng,  
Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Bình Thuận, Vũng Tàu. Tại các  
tỉnh này đã hình thành đội tàu công suất lớn, chủ yếu hoạt động ở  
quần đảo Trường Sa với sản lượng bình quân đạt từ 3000 ÷ 5000  
tấn/năm  
Đặc điểm của nghề câu cá ngừ đại dương.  
- Cho sản lượng đánh bắt và chất lượng cao.  
- Phương tiện đánh bắt gọn nhẹ, phù hợp cho lắp đặt trang  
thiết bị hiện đại đáp ứng được yêu cầu khai thác dài ngày  
trên biển.  
- Ngư trường khai thác rộng.  
- Sử dụng ít nhân lực.  
- Bảo vệ nguồn lợi thủy sản.  
1.1.2. Ngư trường, mùa vụ và đối tượng khai thác nghề câu  
Ngư trường nghề câu  
Để tiến hành khai thác cần phải có thông tin đầy đủ về ngư  
trường, trữ lượng về khả năng khai thác, mùa vụ, đặc tính ăn mồi  
của đối tượng khai thác.v.v..mới thu đựợc hiệu quả và năng suất cao  
đồng thời bảo vệ đựợc nguồn lợi thủy sản. Ngư trường khai thác  
chính của nghề câu cá ngừ đại dương nằm ở 50 đến 150 độ vĩ Bắc  
và 110 đến 150 độ kinh Đông.  
Hiện nay, ngư dân ở nước ta đang khai thác cá ngừ ở vùng  
biển từ Thừa Thiên Huế đổ vào trong, làn nước sâu từ 100 m trở ra.  
Ngư trừơng này nằm ở phía đông bắc quần đảo Trường Sa, cự ly  
khoảng 500 km, cách Phan Thiết 750 km về phía đông.  
Mùa vụ khai thác  
- Vụ cá nam (mùa chính)  
Vụ này kéo dài từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau. Trong vụ này  
sản lượng cá ngừ mắt to nhiều hơn cá ngừ mắt vàng chất lượng cá  
vụ này tốt nhất trong năm.  
- Vụ bắc (mùa phụ )  
Vụ này kéo dài từ tháng 4 đến tháng 9. Sản lượng cá ngừ vây  
vàng trong vụ này nhiều hơn cá ngừ mắt to, chất lượng cá vụ này  
kém hơn vụ trước  
Các đối tượng khai thác  
Cá ngừ đại dương thuộc họ cá thu – ngừ (Scombridac), là cá  
nổi và di cư tự do, chúng thường tập trung thành từng đàn lớn. Ở  
Việt Nam, hiện nay có khoảng hơn 10 loài cá ngừ đại dương trong  
đó có 5 loài có trữ lượng cao, trọng lượng lớn và có giá trị kinh tế  
cao. Đó là ngừ vằn, ngừ vây xanh, ngừ mắt to, ngừ vây vàng và ngừ  
vây dài. Trong đó ngừ vây vàng và ngừ vây dài được đánh bắt nhiều  
nhất, hai loại này có trọng lượng lớn chất lượng thịt thơm ngon nên  
được thị trường thế giới ưa chuộng  
1.2 .TỔNG QUAN VỀ NGÀNH TÀU THUYỀN VÀ KINH  
TẾ THUỶ SẢN CỦA TỈNH PHÚ YÊN  
1.2.1.Điều kiện tự nhiên của tỉnh  
Phú Yên là tỉnh nằm ở khu vực Nam Trung Bộ, diện tích tự  
nhiên 5045 km2 và trải dài từ vĩ độ 130o44’28”B đến vĩ độ 120o  
42’36”B, từ kinh độ 108o40’40’’Đ đến kinh độ 109o27’47”Đ. Phú  
Yên có chiều dài bờ bin kéo dài từ Bắc (Mũi Bàn Thang) đến Nam  
(Chân Hòn Nưa) dài khoảng 190km, có nhiều dải núi ăn ra biển  
hình thành các eo vịnh, đầm phá. Cùng với các vùng bãi triều nước  
lợ, cửa sông nhiều dinh dưỡng đã tạo nên vùng nước lợ ven biển  
khoảng 21.000 ha là các bãi đẻ và sinh trưởng tốt của các loài tôm,  
cá con. Chúng là nguồn bổ sung trữ lượng hải sản vùng biển, vùng  
nước mặn, nước lợ ven biển rất thuận lợi cho sự phát triển.  
Dọc bờ biển Phú Yên có 7 cửa sông, vịnh là nơi ra vào trú đậu  
tàu thuyền đánh cá và là nơi nuôi trồng thủy sản nước lợ. Do đó, từ  
lâu đời đã hình thành các cụm cư dân ngư nghiệp. Từ Bắc xuống  
Nam có các cửa sông và vịnh là: cửa đầm Cù Mông, cửa vịnh Xuân  
Đài, cửa Tiên Châu (sông Kỳ Lộ), cửa Tân Quy (Đầm Ô Loan), cửa  
Đà Rằng (sông Đà Rằng), cửa Đà Nông (sông Bàn Thạch), cửa vịnh  
Vũng Rô.  
Hai vịnh Vũng Rô và Xuân Đài là những vùng nước rộng, sâu,  
kín gió thích hợp cho các loại tàu lớn hơn 1000 tấn ra vào trú đậu.  
Hai cửa Đà Rằng và Tiên Châu có độ sâu trung bình dưới 3m phù  
hợp cho các loại tàu thuyền dưới 90 CV ra vào và trú đậu. Các cửa  
lạch còn lại hẹp, cạn chỉ thích hợp cho các loại tàu thuyền nhỏ hơn  
60 CV ra vào khi có thuỷ triều dâng.  
Lưu lượng nước của biển do bốn con sông: Sông Cầu, Kỳ Lộ,  
Sông Ba, Bàn Thạch cung cấp, hàng năm đổ ra biển khoảng  
(12÷13) tỷ m3 nước mang theo lượng phù sa, bùn cát gần 2,3 triệu  
tấn và các chất hoà tan khoảng 0,55 triệu tấn, tạo nên vùng sinh thái  
nước lợ giàu dinh dưỡng cho các loại thuỷ sinh vật phát triển phong  
phú ở các cửa sông, lạch ven biển.  
Độ nông sâu ở biển này rất phức tạp: độ sâu từ 200m trở vào  
chiếm 46,38%, trên 200m chiếm 53,62%. Do biển sâu nên nghề  
khai thác cá nổi là chủ yếu. Khai thác cá tầng đáy chỉ thích hợp ở  
vùng thềm ven biển có độ sâu < 100m trở vào.  
Phú Yên có chế độ hải lưu thay đổi quanh năm rất phức tạp.  
Thời kỳ gió mùa đông bắc thì dòng hải lưu chảy theo hướng Bắc  
Nam, tốc độ dòng chảy đạt tới (50 ÷ 60) m/s (từ tháng 12 đến tháng  
2 năm sau), nhỏ nhất là 25 m/s vào tháng 4. Còn thời kỳ gió mùa  
Tây Nam thì hải lưu chảy theo hướng Nam Bắc, tốc độ dòng chảy  
đạt tới (30 ÷ 50) m/s và chảy rất sát bờ biển miền Trung.  
Ở vùng biển phía nam Phú Yên, hoạt động của hải lưu tạo nên  
vùng “nước trồi” từ tháng 4 đến tháng 8. Vùng “nước trồi” đã ảnh  
hưởng đến vùng biển này, cùng với dòng hải lưu mùa hè mang dòng  
nước ấm từ phía Nam lên tạo thành vùng tập trung cá nổi rộng lớn.  
Ngoài khơi, còn có những hoàn lưu kín tạo nên những dải “giáp  
nước” là nơi tập trung các đàn cá Ngừ và cá khác.  
Thuỷ triều vùng biển Phú Yên thuộc chế độ nhật triều không  
đều, hàng tháng có khoảng 20 ngày nhật triều. Biên độ thuỷ triều kỳ  
nước cường từ (1,2 ÷ 2,20)m, kỳ nước kém từ (0,5 ÷ 1)m. Biên độ  
thuỷ triều bị giảm mạnh khi truyền vào trong sông, trong đầm. Nồng  
độ muối ngoài khơi ổn định cao từ (33,6 ÷ 34) ‰, vùng ven bờ  
khoảng (31 ÷ 32) ‰, càng vào sâu cửa sông, cửa đầm nồng độ muối  
càng giảm. Nhiệt độ nước biển tầng mặt vào mùa hè khoảng (28 ÷  
29) 0C, mùa đông từ (24,2 ÷ 25,5) oC  
Với vị trí địa lý thuận lợi như vậy tạo điều điện thuận lợi cho  
kinh tế Phú Yên phát triển, hoà nhập vào nền kinh tế của vùng và cả  
nước.  
1.2.2. Tình hình chung về nghề cá và tàu cá Phú Yên  
Phú Yên là một trong những tỉnh có nền kinh tế phát triển, đặc  
biệt ngành thuỷ sản luôn đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển  
kinh tế tỉnh nhà.  
Biển Phú Yên có nguồn lợi thuỷ sản phong phú, gần các ngư  
trường trong điểm và ngư trường xa bờ. Tổng sản lượng khai thác  
trên 30.000 tấn/năm (tôm, cá, mực v.v..). Trong đó nguồn lợi vùng  
khơi chưa được khai thác nhiều, nghề khai thác của tỉnh đang phát  
triển theo hướng tích cực, ngày càng giảm khai thác vùng ven bờ,  
tăng lực lượng khai thác vùng khơi xa. Tuy nhiên, so với các tỉnh  
phía Nam thì nghề cá Phú Yên vẫn còn yếu kém cả về số lượng tàu  
thuyền, công suất máy, cơ cấu nghề và kỹ thuật đánh bắt.  
Nghề khai thác cá của tỉnh Phú Yên đa phần là các nghề sau:  
lưới kéo (giã cào), lưới vây, lưới rê, câu khơi, câu tay, mành trù, pha  
xúc …  
Chương 2:  
Đặc điểm nghề cá của Phú Yên  
Nghề lưới kéo: Đánh cá bằng lưới kéo là một trong những  
phương thức đánh bắt công nghiệp có tính chủ động cao và là một  
trong những nghề phổ biến. Nghề này đánh bắt theo kiểu lọc nước  
lấy cá, thông thường đánh bắt các loại cá ở tầng đáy và tầng giữa.  
Lưới kéo có kết cấu như một bao hở miệng. Năng suất đánh bắt  
được quyết định bởi lượng nước lọc qua lưới nhiều hay ít và mật độ  
cá trong nước cao hay thấp.  
Nghề lưới kéo ở Phú Yên được chia làm hai vụ chính vào các  
tháng 2, 3, 4, 5 và 9, 10, 11. Thời vụ phụ rơi vào các tháng còn lại  
trong năm. Trong thời vụ phụ thì các tàu này vào cảng neo đậu để  
tránh bão hoặc làm một số công tác đảm bảo an toàn như kiểm tra  
định kỳ, cạo hà và sơn sửa lại. Thường thì khoảng 6-7 tháng ngư  
dân lại đưa tàu của mình vào các cơ sở, xưởng sửa chữa tàu để làm  
lại các đường xơ tre, keo dán đồng thời sơn lại tàu cho mới.  
Nghề lưới vây: Đây là hình thức đánh bắt công nghiệp cho  
năng suất và sản lượng cao (đã có những mẻ lưới đến 30 tấn cá,  
tôm). Lưới vây có kết cấu như một tấm phẳng mà chiều dài gấp rất  
nhiều lần chiều rộng. Thực chất của đánh bắt cá lưới vây là dùng  
hàng rào lưới bao bọc lấy đàn cá, sau đó dồn chúng lại một chỗ rồi  
đưa lên tàu. Lưới vây là công cụ đánh bắt ở tầng mặt nên không phụ  
thuộc vào địa hình đáy biển mà phụ thuộc vào độ sâu đánh bắt.  
Nghề lưới rê: Lưới rê là công cụ đánh bắt bằng lưới, có từ lâu  
đời và được sử dụng rộng rãi trên toàn thế giới. Lưới rê có cấu tạo  
thông thường là một dải lưới gồm nhiều tấm lưới hình chữ nhật  
được liên kết lại với nhau, có chiều dài lưới từ vài chục mét đến  
hàng chục kilômét. Với việc sử dụng hệ thống dây giềng và trang bị  
phao, chì v.v.. nên lưới có hình dạng giống như một bức tường lưới  
khi làm việc. Nó có thể được sử dụng đánh bắt cá ở mọi vùng nước,  
ở các trình độ và quy mô khác nhau, khả năng kinh tế - kỹ thuật cụ  
thể. Các tàu lưới rê được trang bị lưới có chiều dài rất lớn, tuỳ thuộc  
vào độ sâu. Các tàu lưới rê thường hoạt động vào ban đêm, lưới  
được thả vào chiều và thu lên lúc sáng.  
Nghề mành: Đây là nghề chủ yếu đánh bắt ven bờ, cá đánh  
được chủ yếu là các loại cá nhỏ, giá trị kinh tế không cao. Khi đánh  
bắt người ta dùng đèn để thu hút đàn cá, người ta thường dùng 4  
giàn đèn, mỗi giàn 6 bóng đèn Neon để tập trung ánh sáng.  
Các tàu tham gia nghề này thường là các tàu nhỏ, hoạt động ở  
ven bờ nên công suất các tàu này tương đối thấp và thời gian hoạt  
động trên biển ngắn, buổi chiều đi buổi sáng về. Tuy năng suất của  
nghề này không cao nhưng vốn đầu tư thấp do vậy nó phù hợp với  
nhiều ngư dân. Đây cũng là một trong những nghề khá phổ biến ở  
tỉnh Phú Yên.  
Nghề pha xúc: Đây cũng là nghề đánh bắt về đêm nhưng  
khác nghề mành ở điểm đèn được dùng có công suất cao hơn nhiều  
đèn Neon. Nghề pha xúc là nghề đánh cá nổi mới được phát triển  
trong những năm gần đây tuy nhiên sản lượng đánh bắt tương đối  
cao, mặt khác ngư cụ đánh bắt lại khá đơn giản. Nó chỉ là một tấm  
lưới đưa lên hạ xuống. Khi đánh cá tấm lưới được hạ xuống nước,  
dùng giàn đèn công suất lớn để tập trung đàn cá vào khu vc tấm  
lưới và lưới được nâng lên. Giàn đèn công suất lớn được dùng  
thường có từ 16-22 bóng.  
Nghề câu: Đây là nghề khai thác có tính chọn lọc và hình  
thức khai thác như sau:  
- Mồi câu: mồi câu thường được dùng là: cá chuồn, mực  
khơi…  
- Thả câu: thường đánh 2 mẻ trong 1 ngày đêm, mẻ thứ  
nhất thả vào lúc bắt đầu từ 13 hoặc 14 giờ, kết thúc thả câu khoảng  
lúc 16 hoặc 17 giờ. Mẻ thứ hai bắt đầu thả lúc 2h hoặc 2h30, kết  
thúc 4h hoặc 5h sáng ngày hôm sau. Trước khi thả câu cần xem xét  
hướng gió, nước, tàu phải ở dưới hướng gió tránh tình trạng dây  
giềng câu mắc vào chân vịt.  
- Ngâm câu: sau khi thả xong ngâm câu từ (2 ÷ 3)h,  
chạy tàu lên hướng gió tắt máy, thả trôi cách dàn câu một khoảng  
tầm nhìn thấy cờ hiệu (ban đêm pin nhấp nháy). Nếu tàu trôi mạnh  
phải dùng neo nổi để neo tàu.  
- Thu câu: sau khi kết thúc thời gian ngâm câu thì tiến  
hành thu câu. Trong quá trình thu câu tàu luôn dưới gió để tránh  
dây câu mắc vào chân vịt.  
Bảng 1.1.Tổng hợp nghề khai thác thuỷ sản Phú Yên tính đến  
8/2007  
Địa  
Số tàu  
thuyền  
(chiếc)  
phương Đông Phú Sông Tuy  
Ngành  
Tuy  
Hoà  
Tỷ lệ  
(%)  
Hòa Hoà Cầu  
An  
nghề  
19  
19  
9
170  
575  
3
783  
36  
21,59  
0,99  
Câu  
Dịch vụ - 10  
hậu cần  
14  
1
40  
336  
274  
17  
3
44  
1,21  
15,25  
24,49  
4,55  
Lặn  
6
1
129  
156  
73  
61  
76  
8
563  
888  
165  
Lưới kéo  
382  
Lưới rê  
67  
Lưới vây  
53  
580  
60  
362  
10  
79  
1
1074 29,61  
Mành  
Pha xúc  
3
74  
2,04  
3627  
Tổng  
Từ bảng tổng hợp nghề khai thác trên ta thấy nghề lưới rê  
chiếm 24,49%, nghề câu chiếm 21,59%, lưới vây chiếm 4,55%, lưới  
kéo chiếm 15,25%. Theo đó ta thấy, hình thức đánh bắt bằng lưới rê  
và câu được ngư dân sử dụng phổ biến. Tuy vậy, cho đến nay ngư  
dân Phú Yên khai thác bằng thủ công là chủ yếu cho nên hiệu quả  
khai thác và năng suất còn thấp.  
Nhìn chung, nghề cá ở Phú Yên có phát triển nhưng chủ yếu  
nằm trong tình trạng tự phát, quy mô sản xuất nhỏ, khai thác tập  
trung ven bờ. Muốn phát triển vững chắc và vươn lên sản xuất lớn  
nên cần phải có những con tàu có công suất lớn hơn để phục vụ cho  
việc đánh bắt xa bờ.  
1.2.1.Lực lượng tàu thuyền đánh cá ở Phú Yên  
Theo số liệu thống kê của Chi cục bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản  
Phú Yên năm 2001 thì tổng số tàu thuyền đánh bắt hải sản là 3125  
chiếc với tổng công suất là 118.122 CV, trong đó công suất bình  
quân của mỗi tàu là 37,80 CV. Cho đến 3/2007 toàn tỉnh đã có tổng  
số tàu thuyền đánh bắt là 3627 chiếc với tổng công suất là 169.861  
CV, bình quân công suất của mỗi tàu là 44,83 CV. Qua đó ta thấy,  
tổng số tàu thuyền hiện có của Phú Yên tăng so với năm 2001 là  
502 chiếc, tổng công suất tăng 51,739 CV và công suất bình quân  
của mỗi tàu tăng là 7,03 CV, nhưng còn thấp so với trong khu vực  
và cả nước. Điều đó cho thấy, số lượng tàu thuyền tăng không đáng  
kể nhưng công suất của mỗi tàu tăng lên để phục vụ cho việc đánh  
bắt xa bờ, đặc biệt là nghề câu cá ngừ đại dương.  
Nhìn chung tàu cá ở Phú Yên hầu hết là các tàu không lớn  
lắm, lắp máy có công suất nhỏ. Mục tiêu hiện nay của tỉnh là đầu tư  
cơ sở hạ tầng, cầu cảng, bến cảng, dịch vụ hậu cần nghề cá v.v.. thật  
tốt, tăng số lượng tàu thuyền đánh bắt xa bờ, có chính sách đúng  
đắn cho nghề cá để tận dụng được tiềm năng kinh tế của tỉnh nhà.  
Những số liệu nêu trên được dẫn chứng cụ thể bảng 1.2.  
Bảng 1.2. Bảng thống kê tổng hợp tàu thuyền tỉnh Phú Yên tính  
đến 8/2007  
Địa  
Đông Phú Sông Tuy Tuy  
Hoà Hoà Cầu An Hoà  
phương  
TT  
Phân < 20 CV <  
332  
604 347 73  
590 274 182  
136 183 114  
chia  
12m  
1 theo  
công  
suất  
(20 ÷  
49)  
12 ÷ 143  
15  
(50 ÷  
89)  
16 ÷ 46  
18  
(CV)  
ứng  
(90 ÷  
19 ÷ 18  
1
15 56  
234  
với  
149) 21  
chiều (150 ÷  
dài tàu 400)  
(m)  
22 ÷ 9  
25  
1
63  
206  
2 Tổng số tàu thuyền (chiếc)  
3 Tổng công suất (CV)  
3627  
169.861  
44,83  
4 Bình quân công suất mỗi tàu (CV/chiếc)  
chương 3:  
Ngư trường và mùa vụ khai thác  
nghề cá ở Phú Yên  
Ngư trường và mùa vụ khai thác nghề lưới kéo  
Do đặc điểm địa hình thềm lục địa hẹp và dốc, sâu đột ngột  
nên ngư trường khai thác nghề lưới kéo chia thành: ngư trường gần  
bờ và ngư trường xa bờ.  
Mùa vụ khai thác nghề lưới kéo:  
Vụ chính: từ tháng (2 ÷ 5) và tháng (9 ÷11).  
Vụ phụ: các tháng còn lại trong năm.  
Ngư trường và mùa vụ khai thác nghề lưới vây  
Thời vụ khai thác từ tháng 1 đến tháng 10. Các loại cá khai  
thác được là: cá nục, cá ồ, cá ngân, cá trích v.v..  
Ngư trường và mùa vụ khai thác nghề lưới rê  
Ngư trường khai thác nghề lưới rê gồm: ngư trường phía  
Bắc từ Bình Định đến Đà Nẵng, ngư trường phía Nam từ Khánh  
Hoà đến vịnh Thái Lan.  
Nghề lưới rê được khai thác quanh năm trừ các ngày có  
trăng (từ ngày 12 ÷ 17 âm lịch hàng tháng).  
Ngư trường và mùa vụ khai thác nghề câu  
Ngư trường khai thác nghề câu rộng lớn bao gồm tất cả các  
ngư trường trong cả nước. Tuy nhiên, theo kinh nghiệm của ngư  
dân Phú Yên thường đánh bắt từ vĩ độ 6 ÷ 17 oN, kinh độ 111 ÷ 115  
oE.  
Qua thực tế điều tra và phản ánh của bà con ngư dân hoạt  
động nghề câu cho biết nghề câu cá ngừ đại dương khai thác từ  
tháng 1 đến 9 hàng năm, thời điểm khai thác đạt sản lượng cao vào  
các tháng 2, 3, 5, 6.  
Mùa vụ khai thác: có 2 mùa  
- Vụ cá Bắc từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau.  
- Vụ cá Nam từ tháng 4 đến tháng 9.  
Các loại cá khai thác được: ngừ vây vàng, ngừ mắt to, cá  
nhám, cá cờ bườm,cá cờ kiếm, cá nục heo v.v..  
1.1 CÁC TÀU CÂU CÁ NGỪ ĐẠI DƯƠNG CỦA TỈNH  
PHÚ YÊN, THỰC TRẠNG CÔNG TÁC THIẾT KẾ TÀU  
1.3.1.Yêu cầu về kinh tế - kỹ thuật đối với tàu đóng mới  
Tàu thuyền là một công trình kiến trúc nổi trên mặt nước. Nó  
hoạt động trong điều kiện chịu tác dụng của ngoại lực phức tạp. Do  
đó, cần phải đảm bảo các yêu cầu kinh tế - kỹ thuật sau:  
- Tàu đóng mới phải đảm bảo được tính năng hàng hải như  
tính nổi, ổn định, lắc, chống chìm, điều khiển, tốc độ v.v..  
- Độ bền thân tàu và độ tin cậy làm việc của máy móc thiết bị  
cao.  
- Kích thước, trọng lượng kết cấu cần cố gắng thật nhỏ gọn,  
nhưng vẫn đảm bảo đủ bền.  
- Yêu cầu về an toàn: Để tàu đóng mới đảm bảo được độ bền  
và an toàn cần trang bị các thiết bị sau:  
+ Trang bị phương tiện cứu sinh.  
+ Hút khô, chống chìm.  
+ Phòng cháy và chữa cháy: Có thể trang bị bơm và bình  
chữa cháy.  
+ Trang bị phương tiện thông tin.  
+ Trang bị phương tiện tín hiệu.  
+ Âm hiệu: Còi, chuông hoặc kẻng.  
- Hình dạng hợp lý.  
- Giá thành đóng mới không cao lắm, chất lượng tốt, chi phí  
vận hành thấp, tính hiệu quả trong khai thác cao và chi phí bảo  
dưỡng, sửa chữa thấp.  
1.3.2.Đặc điểm các tàu câu cá ngừ đại dương của tỉnh Phú  
Yên  
1.3.2.1.  
Đặc điểm đường hình tàu  
Hình dáng mũi tàu ảnh hưởng rất nhiều đến tính năng hàng  
hải của tàu. Các tàu câu Phú Yên hình dáng giống các tàu khác, đều  
có dạng thuỷ khí động học để giảm tác dụng của lực cản vào thân  
tàu. Sống mũi thẳng, hơi nghiêng về phía trước một góc (hợp với  
mặt phẳng ngang một góc 650 ÷ 700). Với sống mũi như vậy dễ chế  
tạo, tàu tạo dáng khoẻ, cắt sóng tốt đồng thời quay trở thuận tiện và  
tránh va đập sóng, ngăn sóng trào lên mặt boong. Mặt cắt ngang  
phía mũi tàu có dạng chữ V, càng lên cao mặt boong càng được mở  
rộng, thuận tiện cho công tác khai thác, thực tế đã chứng minh với  
đặc điểm như vậy thì lực cản chống lắc khá tốt.  
- Đặc điểm hình dáng của đuôi tàu:  
Hầu hết tất cả các tàu gỗ của tỉnh Phú Yên hiện nay đều có  
dạng đuôi vuông, mặt cắt ngang phần đuôi có hình chữ U. Kết cấu  
vòm đuôi tàu có ảnh hưởng rất nhiều đến tính ổn định của tàu.  
Đuôi tàu nghiêng một góc nhất định về phía sau, độ ngập  
nước không quá sâu để tránh sức cản tăng lên nhất là hiện tượng va  
đập sóng khi tàu lùi, góp phần tăng diện tích sinh hoạt trên tàu. Tuy  
nhiên do đuôi tàu quá béo nên làm giảm tốc độ của tàu, tính quay  
trở của tàu kém và khi tàu lùi thì bị vỗ sóng mạnh.  
- Hình dáng mặt boong:  
Tất cả các tàu hiện nay đều có mặt boong dạng mu rùa để tạo  
điều kiện cho nước thoát nhanh khi sóng trào lên mặt boong.  
- Hình dáng phần chìm dưới nước:  
Phần chìm dưới nước của tàu tương đối đơn giản, nửa trước  
của thân tàu thuôn đều về mũi vừa đảm bảo tính cơ động , vừa có  
tác dụng làm giảm sức cản cho tàu.  
1.3.2.2.  
Đặc điểm kết cấu tàu  
- Ky chính, đó là một cây gỗ thẳng, dài có khối lượng tương  
đối lớn. Ky chính cùng với các xà dọc, xà ngang, tạo nên bộ khung  
xương của tàu. Các tấm ván vỏ được ghép với khung xương bằng  
các bulông và đinh thép, vỏ tàu được làm kín nước bằng một hợp  
chất kết dính đặc biệt. Khi đóng tàu vỏ gỗ người ta phải dựng xong  
khung xương rồi mới tiến hành ghép các ván vỏ vào bộ khung  
xương, sau đó ta chèn xơ tre vào các khe hở rồi dùng chai phà dán  
lại.  
- Khung xương đáy bao gồm các đà ngang đáy và các đà dọc  
đáy có kích thước và tiết diện phụ thuộc vào từng con tàu.  
- Khung xương mạn bao gồm các sườn mạn và các xà dọc  
mạn được bố trí ở hai bên mạn tàu tạo thành hình dạng mặt cắt  
ngang của tàu.  
- Phần boong tàu bao gồm các xà ngang boong và xà dọc  
boong, chúng được liên kết với khung xương đáy và khung xương  
mạn tạo thành một bộ khung xương vững chắc cho tàu giúp tàu chịu  
được áp lực của nước, hàng hoá và sóng gió.  
- Sống mũi tàu thường là một cây gỗ lớn có chất lượng tốt do  
mũi tàu là nơi thường xuyên chịu va đập của sóng biển và các vật  
nổi. Sống mũi thường nghiêng về phía trước để giảm lực cản của  
nước và làm tăng khả năng cắt sóng của tàu.  
- Kết cấu vỏ tàu là những ván gỗ dài được uốn cong theo  
nhiều chiều được ghép lại với nhau. Để gắn được các ván gỗ vào  
khung xương tàu theo đúng tuyến hình là một công việc hết sức khó  
khăn, đòi hỏi người thợ phải có nhiều kinh nghiệm. Người ta phải  
dùng lửa và các vật giữ, đè để uốn cong được tấm gỗ theo ý muốn.  
1.3.2.3.  
Kết cấu thượng tầng  
Kết cấu thượng tầng có ảnh hưởng đến tính ổn định của tàu.  
Thượng tầng càng cao thì tính ổn định của tàu càng giảm. Các tàu cá  
Phú Yên hiện nay đều có cabin đặt ở đuôi tàu. Cabin là nơi nghỉ  
ngơi của thuỷ thủ đồng thời là buồng điều khiển của con tàu.  
1.3.2.4.  
Buồng máy  
Các tàu cá Phú Yên có buồng máy đặt phía sau đuôi tàu. Việc  
bố trí buồng máy phía đuôi tàu có nhiều ưu điểm như lợi dụng được  
diện tích phía đuôi tàu, giảm được chiều dài hệ trục, giảm được  
công suất tiêu hao trên trục, việc bảo dưởng trục được dễ dàng hơn.  
Buồng máy của các tàu câu cá ngừ đại dưong Phú Yên được trang  
bị rất đơn giản có máy chính, các thùng chứa nhiên liệu, bình ắcqui  
và một bơm hút khô v.v..  
1.3.2.5.  
Các hầm chứa  
Các hầm chứa được bố trí từ buồng máy về phía trước mũi tàu  
. Thông thường các tàu câu cá ngừ đại dương hiện nay có bố trí 3 ÷  
5 hầm chứa tùy theo chiều dài của tàu.  
1.3.2.6.  
Hệ thống điều khiển  
Các tàu câu hiện nay thường sử dụng kiểu lái cơ khí. Vô lăng  
điều khiển đặt ở cabin lái, điều khiển trục lái thông qua hệ thống  
truyền động kiểu cơ khí, bao gồm hệ bánh răng, puly hướng cáp,  
các đĩa xích và cáp truyền động. Kiểu lái này tương đối đơn giản phù  
hợp với các loại tàu thuyền nghề cá hiện nay.  
Chương 4:  
Trang bị động lực tàu  
Các tàu cá Phú Yên thường được bố trí một hệ trục chân vịt, không  
có trục trung gian, máy chính thường dùng là máy của hãng  
YANMAR, HINO, MITSUBISHI, ISUZU v.v..  
Phú Yên hiện có 21 cơ sở đóng sửa tàu thuyền, trong đó 5 hợp  
tác xã kiểu mới và 16 tổ hợp tư nhân đã đảm bảo được phần lớn yêu  
cầu đóng sửa tàu thuyền của ngư dân. Toàn tỉnh, hàng năm đóng  
mới (200 ÷ 300) chiếc và sửa chữa khoảng (300 400) chiếc.  
Theo dự án đầu tư cơ sở hạ tầng – trung tâm dịch vụ hậu cần  
nghề cá Phú Yên, trong giai đoạn 2005 ÷ 2010 nhu cầu hoán cải,  
đóng mới và sửa chữa các tàu thuyền có công suất > 90 CV ngày  
càng nhiều. Tổng số tàu thuyền đóng mới bình quân (100 200)  
chiếc/năm, sửa chữa lớn 600 chiếc/năm.  
1.3.2.1.  
Hệ thống khai thác  
Các tàu câu cá ngừ đại dương trang bị máy móc được bố trí  
trên tàu câu là máy thu, thả câu, ngư cụ là dàn câu cùng hệ thống  
ánh sáng, khoang chứa, thiết bị cấp đông v.v.. trong đó máy thu câu  
được dẫn động bằng cách trích công suất từ máy chính hiện nay đều  
dùng máy để thu câu. Trên tàu thường được trang bị hai neo, neo  
mũi và neo lái. Mỏ neo có trọng lượng vào khoảng 50 ÷ 200 kg tuỳ  
vào kích thước của tàu.  
1.1 . SỰ CẦN THIẾT PHẢI TÍNH TOÁN THIIẾT KẾ SƠ  
BỘ TÀU ĐÁNH CÁ  
Trước yêu cầu của thực tế cuộc sống, hàng năm số lượng tàu  
thuyền vẫn được tăng lên, hầu hết các loại tàu thuyền này được  
đóng theo kinh nghiệm dân gian không có thiết kế. Việc đóng tàu  
theo kinh nghiệm dân gian được đúc kết từ những ưu điểm thực tế  
qua nhiều năm, tuy vậy cũng gây ra một số vấn đề khó khăn phức  
tạp trong việc tổ chức quản lý và nhất là vấn đề an toàn trên tàu.  
Do yêu cầu của nghề nghiệp, tàu thuyền nghề cá phải làm  
việc liên tục trên biển dài ngày, trong khi đó tàu luôn phải mang tải  
trọng khi rời bến, tải trọng này là lương thực, thực phẩm, nhiên  
liệu, dầu bôi trơn, muối, đá v.v.. khi về bến thay vào lượng dự trữ  
nói trên là lượng cá đánh bắt được.  
Mặt khác, điều kiện hoạt động của tàu trên biển hết sức phức  
tạp, tàu luôn chịu tác dụng của các lực có phương, chiều, độ lớn  
thay đổi. Đó là các lực do sóng và gió.  
-Qua thời gian đi thực tế ở tỉnh Phú Yên tôi thấy rằng: việc  
thiết kế tàu chủ yếu dựa vào tàu mẫu. Vì vậy hầu hết các loại tàu  
thuyền đánh cá ở Phú Yên đều đóng theo kinh nghiệm dân gian mà  
không có thiết kế. Trong số các tàu thuyền được đóng theo kinh  
nghiệm dân gian ngoài những chiếc có tính năng khá tốt do ngẫu  
nhiên, còn lại các tàu đều tồn tại những vấn đề cần giải quyết.  
Thực tế một số tàu cho thấy những chiếc đóng ra không đảm bảo  
an toàn. Các con tàu như vậy thì hoạt động kém hiệu quả, trong  
điều kiện làm việc phức tạp khó khăn thì rất dễ xảy ra tai nạn, gây  
thiệt hại rất lớn về người và của.  
- Đây là một thực trạng gây ra nhiều khó khăn cho công tác  
đăng kiểm cũng như công tác quản lý và khai thác các tàu này. Để  
được cấp giấy phép hoạt động thì chủ tàu chỉ nộp hồ sơ hoàn công  
cho đăng kiểm duyệt, các hồ sơ này được lập khi con tàu đóng mới  
đã được đóng.Việc đóng tàu theo kinh nghiệm dân gian ở Phú Yên  
mặc dù có truyền thống lâu đời, nhưng trước thực tế như vậy khó  
mà đáp ứng đầy đủ tính an toàn cho con tàu, nhất là đối với việc  
đóng mới những con tàu tương đối lớn. Để hạn chế tối đa các  
nguyên nhân dẫn đến lật tàu nhằm đảm bảo an toàn cho tàu, cần  
quan tâm ngay từ khâu thiết kế bằng cách tiến hành các tính toán  
mt cách khoa học.  
- Trong thời gian nghiên cứu khoa học của mình, PGS-TS  
Nguyễn Quang Minh đã công bố nhiều công trình khoa học trong  
đó có công trình nghiên cứu khoa học: “Giải thuật tính toán ổn định  
theo phương pháp mới”, trong đó có đưa ra hai phương trình là  
phương trình ổn định và phương trình lắc, qua đó giúp cho việc giải  
bài toán thiết kế tàu dễ dàng và nhanh hơn mà vẫn đảm bảo được  
các tính năng hàng hải và các thông số kỹ thuật của con tàu.  
1.2 .CÁC PHƯƠNG PHÁP THIẾT KẾ TÀU  
Thiết kế tàu là một công việc rất phức tạp, nó ảnh hưởng trực  
tiếp đến chất lượng con tàu.  
Chất lượng của con tàu thiết kế không những được quyết  
định bởi quan điểm thiết kế mà còn quyết định bởi phương pháp  
thiết kế. Hiện nay, nhờ sự phát triển của khoa học kỹ thuật và sự  
trợ giúp của máy tính nên ngày càng có những phương pháp thiết  
kế tiến bộ hơn so với trước kia. Có rất nhiều phương pháp thiết kế,  
mỗi phương pháp đều có ưu và nhược điểm riêng, sau đây là một  
số phương pháp thiết kế được dùng phổ biến hiện nay:  
-Thiết kế theo truyền thống.  
-Thiết kế theo tàu mẩu.  
-Thiết kế tối ưu.  
1.5.1.Phương pháp thiết kế truyền thống  
Hiện nay, việc thiết kế tàu thuyền nói chung và việc thiết kế  
tàu cá nói riêng vẫn dùng phương pháp thiết kế truyền thống.  
Phương pháp này được thực hiện theo trình tự sau:( hình 1.1)  
- Pt trọng lượng  
- Pt ni  
- Pt sức chức  
- Pt t
ốc độ  
Các yếu tố  
hình học  
Đường hình  
lý thuyết  
Nhiệm vụ  
thiết kế  
Bố trí  
chung  
Kết cấu  
Không đạt yêu cầu  
Kiểm tra  
ổn định  
Trang  
thiết bị  
Hoàn thiện thiết kế, chế tạo  
Đạt yêu cầu  
Hình 1.1. Sơ đồ thiết kế theo phương pháp truyền thống  
* Bước 1: Xây dựng nhiệm vụ thư thiết kế.  
Trên cơ sở mục đích sử dụng và các yêu cầu khác của người  
đặt hàng, từ các cơ sở khoa học, từ các kinh nghiệm người ta xây  
dựng được nhiệm vụ thiết kế và căn cứ vào nhiệm vụ này ta bắt  
đầu thực hiện các bước tiếp theo.  
* Bước 2: Giải quyết hệ phương trình thiết kế.  
Khó khăn nhất trong quá trình thiết kế là việc giải hệ phương  
trình thiết kế. Trong phương pháp này, hệ phương trình thiết kế  
được thành lập từ các phương trình sau:  
Phương trình trọng lượng: Đây là phương trình được  
thiết lập từ các trọng lượng thành phần của con tàu như trọng  
lượng vỏ, trọng lượng máy, trọng lượng trang thiết bị, trọng lượng  
nhiên liệu, trọng lượng thuyền viên, trọng lượng lương thực thực  
phẩm v.v..  
P = Pi (1.1)  
Phương trình nổi: Đây là phương trình được thiết lập  
từ quan hệ giữa trọng lượng tàu và thể tích chiếm nước của tàu.  
D = γV = γδLBT = f (δ,L,B,T) (1.2)  
Phương trình sức chứa: Là phương trình được thiết  
lập từ quan hệ giữa thể tích chiếm nước toàn phần của tàu và các  
thể tích thành phần như thể tích các khoang, thể tích các kết cấu  
v.v..  
V = Vi  
(1.3)  
Phương trình tốc độ: Được thiết lập từ quan hệ giữa  
công suất có ích trên trục chân vịt với các thông số tính năng của  
tàu.  
R.v  
ESP = =  
75  
D2 / 3.v3  
(1.4)  
Ce  
Đây là công thức kinh nghiệm, trong đó:  
R: sức cản của vỏ tàu.  
v : tốc độ của tàu.  
D: trọng tải tàu.  
Ce: hằng số hải quân.  
* Bước 3: Tình các yếu tố hình hoc  
Là bước tính tiếp theo sau khi đã giải các phương trình của hệ  
phương trình thiết kế  
*Bước 4: Thiết kế đường hình.  
Là bước thiết kế tiếp theo khi ta tính được các yếu tố hình  
học của tàu. Khi thực hiện bước này xong ta được hình dáng lý  
thuyết của con tàu.  
*Bước 5: Thiết kế bố trí chung, thiết kế kết cấu, thiết kế  
trang thiết bị.  
Được thực hiện sau khi thiết kế đường hình, các bước này  
thường được thực hiện kết hợp giữa kinh nghiệm, tàu mẫu và quy  
phạm.  
*Bước 6: Kiểm tra ổn định.  
Đây là bước rất quan trọng, nó đánh giá sự thành công hay  
thất bại của quá trình thiết kế. Khi tiến hành có hai khả năng xảy  
ra:  
Nếu đạt yêu cầu thì thực hiện các bước tiếp theo là  
thiết kế kỹ thuật và thiết kế công nghệ.  
Nếu không đạt yêu cầu thì bắt buộc ta phải làm lại từ  
đầu bằng cách điều chỉnh nhiệm vụ thiết kế.  
Ưu điểm.  
+ Thiết kế được những con tàu hoàn toàn mới.  
+ Là phương pháp thiết kế mang tính chất khoa học vì các  
thông số kỹ thuật của tàu có được dựa trên các phép tính toán học  
chính xác, có cơ sở phân tích lựa chọn được khoa học công nhận,  
kết quả đưa ra có độ tin cậy cao.  
+ Có thể nghiên cứu một con tàu bằng cách nghiên cứu hồ  
sơ của nó.  
Nhược điểm.  
+Việc giải hệ phương trình thiết kế để xác định các yếu tố  
hình học của tàu còn gặp nhiều khó khăn do số ẩn nhiều hơn số  
phương trình thiết lập được. Cho nên việc tìm ra các nghiệm của  
hệ mất rất nhiều thời gian.kết quả thu được mang tính thụ động, vì  
đến bước kiểm tra ổn định ta vẫn chưa biết con tàu đang được thiết  
kế có đảm bảo yêu cầu hay không. Thường con tàu khi kiểm tra  
không đạt yêu cầu ta phải thực hiện lại nhiều lần, đến khi khi nó  
đạt yêu cầu thì kết quả này cũng chỉ mang tính may mắn. Như vậy,  
với phương pháp này ta không nên quá lạm dụng.  
+ Phương trình thiết lập hết sức phức tạp đòi hỏi người  
thiết kế phải có trình độ chuyên môn cao  
+ Giá thành của con tàu tương đối cao do mất nhiều thời  
gian và công sức cho công việc thiết kế.  

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 161 trang yennguyen 26/09/2024 260
Bạn đang xem 30 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Thiết kế sơ bộ tàu câu cá ngừ đại dương", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_thiet_ke_so_bo_tau_cau_ca_ngu_dai_duong.pdf