Đề tài Nghiên cứu xây dựng định hướng chiến lược về cơ cấu sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam tới thị trường EU đến năm 2010
Bé c«ng Th−¬ng
Trung t©m th«ng tin c«ng nghiÖp vµ th−¬ng m¹i
®Ò tµi nghiªn cøu khoa häc cÊp bé
Nghiªn cøu x©y dùng ®Þnh h−íng chiÕn
l−îc vÒ c¬ cÊu s¶n phÈm xuÊt khÈu cña
viÖt nam tíi thÞ tr−êng EU ®Õn n¨m 2010
M· sè: 35.08 RD/H§ - KHCN
C¬ quan chñ tr×: Trung t©m Th«ng tin C«ng nghiÖp vµTh−¬ng
m¹i
C¬ quan chñ qu¶n: Bé C«ng Th−¬ng
Chñ nhiÖm ®Ò tµi: Th.s Ph¹m H−ng
7069
19/01/2009
Hµ Néi, th¸ng 12/2008
Danh mục các từ viết tắt trong đề tài
Tiếng Anh
Tên viết tắt
ASEAN
EU
Tiếng Việt
Association of Southeast Asian Nations Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
European Union
Liên Minh Châu Âu
FDI
Foreign Direct Investment
Free Trade Agreement
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
Khu mậu dịch tự do
FTA
General Agreement on Tariffs and Hiệp định chung về mậu dịch và
Trade thuế quan
Generalized System of Preferences Ưu đãi thuế quan phổ cập
GATT
GSP
MFN
ODA
WTO
GDP
ECSC
EEC
Most Favored Nation
Tối Huệ Quốc
Official Development Aid
World Trade Organization
Gross Domestic Product
Vốn hỗ trợ phát triển chính thức
Tổ chức Thương mại thế giới
Tổng sản phẩm quốc nội
European Coal and Steel Community Cộng đồng Than Thép châu Âu
European Economic Community
Cộng đồng Kinh tế Châu Âu
Euratom
(EAEC)
European Atomic Energy
Community
Cộng đồng Năng lượng Nguyên tử
châu Âu
EMU
CIF
European monetary union
Cost, Insurance and Freight
Value Added Tax
liên minh kinh tế và tiền tệ
Giá thành, bảo hiểm và cước
Thuế giá trị gia tăng
VAT
Hazard Analysis and Critical
Control Points
Phân tích mối nguy và điểm kiểm
soát tới hạn
HACCP
RoSH
Restriction of Certain Hazardous
Substances
Hạn chế chất nguy hiểm
Danh mục bảng
Tên bảng
Trang
34
Bảng 1.1 : Kim ngạch nhập khẩu của EU giai đoạn 2002-2007
Bảng 1.2: Cơ cấu hàng nhập khẩu của EU (ĐVT triệu EUR)
Bảng 2.1: Kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam-EU giai đoạn 2002-2007
Bảng 2.2: Kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam với các nước EU
Bảng 2.3: Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU 2002-2007
Bảng 2.4: Tỷ trọng các thị trường xuất khẩu chính trong tổng kim ngạch
xuất khẩu của Việt Nam 2004 - 2007
36
57
58
60
60
62
Bảng 2.5: Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU theo thị trường
2003-2007
Bảng2.6: Cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam sang EU
Bảng 2.7: Kim ngạch xuất khẩu giày dép của Việt Nam sang các nước EU
Bảng 2.8 : Các loại giày dép xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang EU
Bảng2.9 : Tiêu thụ giày dép của các nước EU qua các năm
Bảng 2.10 : Thị trường cung cấp giày dép cho các nước EU
Bảng 2.11: Kim ngạch xuất khẩu chè của Việt Nam sang thị trường Eu.
Bảng 2.12: Xuất khẩu cà phê của Việt Nam tới các nước EU 2002 – 2007
Bảng2.13: Kim ngạch xuất khẩu rau quả của Việt Nam sang thị trường EU
Bảng2.14: Kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam sang EU
Bảng 2.15: Kim ngạch xuất khẩu thủy sản sang EU giai đoạn 2003 - 2007
Bảng 2.16: Một số mặt hàng thuỷ sản chính của Việt Nam xuất khẩu sang thị
trường EU
64
68
69
70
71
76
77
78
79
80
82
Bảng 2.17: Thị trường xuất khẩu thuỷ sản chính của Việt Nam trong khối EU
Bảng 2.18: Xuất khẩu sản phẩm gỗ vào thị trường EU giai đoạn 2003 – 2007
Bảng 2.19: Một số thị trường xuất khẩu hàng điện tử - máy tính của Việt
Nam tại khu vực EU năm 2007 (đvt: triệu USD)
84
85
91
Bảng 3.1: Định hướng cơ cấu sản phẩm xuất khẩu sang thị trường EU đến
năm 2010
112
Danh mục biểu đồ
Tên biểu đồ
Trang
Biểu đồ 2.1: Cơ cấu hàng xuất khẩu Việt Nam sang EU năm 2007
65
Biểu đồ 2.2: Kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng chủ lực của Việt
Nam sang Eu
66
74
81
Biểu đồ 2.3 : Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam
sang EU giai đoạn 2002-2007
Biểu đồ 2.4: Cơ cấu hàng thủy sản xuất khẩu của Việt Nam sang EU
năm 2007
Biểu đồ 2.5 : Cơ cấu các thị trường xuất khẩu thủy sản của Việt Nam
sang Eu năm 2007
83
84
Biểu đồ 2.6: Kim ngạch xuất khẩu gỗ và các sản phẩm gỗ của Việt
Nam sang Eu giai đoạn 2002-2007
Biểu đồ 2.7: Cơ cấu các sản phẩm gỗ xuất khẩu của Việt Nam sang
Eu giai đoạn 2002-2007
86
88
Biểu đồ 2.8: Tình hình xuất khẩu ngành hàng điện tử - máy tính sang
khu vực EU (tính chung EU-27) giai đoạn 2002 – 2007
Biểu đồ 2.9: Tỷ trọng của các thị trường thuộc khu vực EU-15 và
EU mới trong cơ cấu xuất khẩu hàng điện tử - máy tính giai đoạn
2002 - 2007
92
Biểu đồ 3.1: Định hướng cơ cấu sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam
sang thị trường EU tới năm 2010
113
Mục lục
1
7
Mở đầu
CHƯƠNG 1: PHÂN TÍCH DỰ BÁO NHU CẦU THỊ TRƯỜNG
EU ĐỐI VỚI CÁC SẢN PHẨM XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM
7
7
1.1 Thị trường EU
1.1.1 Đặc điểm thị trường EU
a, Quá trình hình thành và mở rộng của Liên minh châu Âu
b, Đặc điểm của thị trường EU
7
13
c, Đặc điểm tiêu dùng EU đối với một số nhóm mặt hàng xuất khẩu
chủ lực của Việt Nam.
16
21
21
22
24
29
30
1.1.2 Các vấn đề liên quan đến hàng hóa nhập khẩu vào EU
a, Chính sách ngoại thương
b, Hệ thống thuế quan
c,Các quy định khi nhập khẩu hàng hóa vào thị trường EU
d,Lưu thông hàng hóa trong EU
e, Đặc điểm kinh doanh của doanh nghiệp EU
1.2 Phân tích dự báo nhu cầu của thị trường EU đối với các sản
phẩm xuất khẩu của Việt Nam tới năm 2010
33
33
1.2.1 Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa của thị trường EU và dự
báo xu hướng
1.2.2 Dự báo nhu cầu, thị hiếu tiêu dùng của thị trường EU đối
với các sản phẩm của Việt Nam tới 2010
38
38
41
a, Dự báo những xu hướng chung của thị trường EU
b, Dự báo xu hướng tiêu dùng của thị trường EU với một số nhóm
hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam trong thời gian tới.
1.3 Khả năng mở rộng xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam tới
thị trường EU
44
44
46
48
1.3.1 Khả năng mở rộng hàng hóa nói chung
1.3.2 Khả năng mở rộng với các nhóm hàng xuất khẩu chủ lực
Kết luận chương 1
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CƠ CẤU SẢN PHẨM XUẤT KHẨU
CỦA VIỆT NAM TỚI THỊ TRƯỜNG EU GIAI ĐOẠN 2002-2007
49
49
50
50
55
55
2.1 Quan hệ thương mại Việt Nam –EU
2.1.1 Cơ cấu các nước thuộc EU có quan hệ với Việt Nam
a, Các nước EU 15
b, 12 nước mới gia nhập EU sau này
2.1.2 Thương mại Việt Nam –EU
2.2 Tình hình xuất khẩu của Việt Nam tới thị trường EU giai
đoạn 2002-2007
59
59
64
64
2.2.1 Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam tới thị trường EU
2.2.2 Các sản phẩm xuất khẩu chủ lực của Việt Nam tới thị trường EU
2.2.2.1 Cơ cấu sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam tới thị trường EU
2.2.2.2 Tình hình xuất khẩu các nhóm mặt hàng chủ lực của Việt Nam
tới thị trường EU
67
67
74
76
79
84
87
a. Hàng giầy dép
b. Hàng dệt may
c. Hàng nông sản
d. Hàng thủy sản
e. Sản phẩm gỗ gia dụng
f. Hàng điện, điện tử
2.3. Đánh giá về thực trạng xuất khẩu của Việt Nam tới EU
giai đoạn 2003 – 2007
93
98
Kết luận chương 2
Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG CHIẾN LƯỢC VỀ CƠ CẤU SẢN
PHẨM XUẤT KHẦU CỦA VIỆT NAM TỚI THỊ TRƯỜNG EU
ĐẾN NĂM 2010 VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
99
3.1. Vai trò của thị trường EU trong chiến lược xuất khẩu của
Việt Nam từ nay đến 2010
99
99
3.1.1. Mục tiêu phát triển xuất khẩu từ nay đến 2010
100
3.1.2. Chiến lược xuất khẩu của Việt Nam từ nay đến 2010
102
105
3.1.3. Sự mở rộng hợp tác của EU với Việt Nam
3.2. Định hướng cơ cấu các thị trường thuộc EU với các sản
phẩm xuất khẩu của Việt Nam
3.3. Định hướng chiến lược về cơ cấu các sản phẩm xuất khẩu
của Việt Nam tới thị trường EU
106
106
111
117
3.3.1. Về nhóm và chi tiết các mặt hàng xuất khẩu chính của Việt
Nam tới thị trường EU
3.3.2. Về tỷ trọng các nhóm, nhóm mặt hàng xuất khẩu chính của
Việt Nam tới thị trường EU
3.4. Một số kinh nghiệm quốc tế trong việc xây dựng cơ cấu hàng
xuất khẩu và bài học kinh nghiệm với Việt Nam
3.4.1. Nhật Bản
117
119
124
130
133
133
138
3.4.2. Trung Quốc
3.4.3. Thái Lan
3.4.4. Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam
3.5. Một số giải pháp thực hiện đối với Việt Nam
3.5.1. Giải pháp về phía Nhà nước
3.5.2. Giải pháp về phía doanh nghiệp
3.5.3. Giải pháp tổng hợp đối với nhà nước, hiệp hội ngành hàng,
các tổ chức thương mại, doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế
142
148
161
3.5.4. Giải pháp cho từng nhóm mặt hàng cụ thể
KẾT LUẬN
MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết nghiên cứu
Kim ngạch thương mại hai chiều Việt Nam – EU tăng nhanh trong
những năm qua, từ 3,6 tỷ USD năm 1999 lên hơn 10 tỷ USD năm 2006 và
trên 14,2 tỷ USD năm 2007, cho thấy EU luôn là một trong những đối tác
thương mại lớn nhất của Việt Nam. Trong giai đoạn từ nay đến 2010 thương
mại hai chiều Việt Nam – EU sẽ tiếp tục có những bước phát triển mới, nhất
là khi hai bên đã ký thỏa thuận hợp tác, nâng kim ngạch thương mại hai
chiều lên 23 tỷ USD vào năm 2010.
Thị trường EU chiếm tỷ trọng đáng kể về thị phần các sản phẩm xuất
khẩu của Việt Nam, với kim ngạch xuất khẩu năm 2005 đạt 5,4 tỷ USD, năm
2006 đạt trên 7 tỷ USD và năm 2007 đạt xấp xỉ 9,1 tỷ USD, tăng 28,2% so
với năm 2006. Xuất khẩu hàng hóa Việt Nam tới thị trường này có xu hướng
tăng qua các năm và lớn hơn so với các thị trường Trung Quốc, Mỹ,
ASEAN, Nhật Bản. Những mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam sang
EU là giày dép, cà phê, hàng dệt may, gỗ và các sản phẩm gỗ, thủy sản.
Là thị trường rộng lớn khoảng 500 triệu dân với 27 nước thành viên,
chiếm 30% GDP, 41% thương mại và 43% đầu tư toàn cầu, EU được xác
định là một đối tác quan trọng trong quan hệ đối ngoại của Việt Nam. Song,
với thế mạnh cả về điều kiện tự nhiên, xã hội, chính trị, đặc biệt là mối quan
hệ tốt đẹp giữa Việt Nam và EU thời gian qua, Việt Nam chưa thực sự phát
huy được hết các thế mạnh để tạo nên những bước đột phá về tăng trưởng
kim ngạch xuất khẩu. Trong khi, đẩy mạnh xuất khẩu là mục tiêu quan trọng
trong hoạt động kinh tế đối ngoại của Việt Nam, là điều kiện để thúc đẩy
tăng trưởng GDP với tốc độ cao, là tiền đề để công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nền kinh tế quốc dân.
Việc gia nhập WTO tạo cho Việt Nam những cơ hội để mở rộng thị
trường xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ, tạo tiền đề nâng cao vị thế của Việt
Nam trên trường quốc tế. Hơn thế, trước xu thế biến động phức tạp của thị
2
trường thế giới, việc gia nhập WTO cũng đặt ra nhiều thách thức lớn mang
tính quyết liệt cả ở quy mô nền kinh tế, ngành, sản phẩm và doanh nghiệp.
Tận dụng thời cơ và hạn chế những thua thiệt từ quá trình đó, đặc biệt trong
bối cảnh thị trường thế giới diễn biến phức tạp như hiện nay, để đạt được
mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu mà thị trường EU được xác định là thị
trường xuất khẩu chính của Việt Nam trong thời gian tới cần thiết phải có
những phân tích sâu sát mang tính dự báo về nhu cầu của thị trường EU, qua
đó đề xuất giải pháp về cơ cấu sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam tới thị
trường này từ nay đến năm 2010.
Xuất phát từ những lý do trên, đề tài "Nghiên cứu xây dựng định
hướng chiến lược về cơ cấu sản phẩm hàng xuất khẩu của Việt Nam
tới thị trường EU đến năm 2010" đã được chúng tôi chọn làm hướng
nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu
Đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến chủ đề này như:
- Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị
trường Châu Âu/ Nxb. Lý luận chính trị, 2004. Sách gồm 7 chương, chương
1: Vị trí của thị trường Châu Âu trong hoạt động xuất khẩu hàng hóa của
Việt Nam; Chương 2+3 Xem xét đặc điểm của thị trường EU và thị trường
các nước SNG; Chương 4 Phương án xây dựng các mặt hàng xuất khẩu chủ
lực của Việt Nam sang thị trường Châu Âu giai đoạn 2010; Chương 5-7
Trình bày các giải pháp các giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh
trong xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam tại thị trường Châu Âu, thị
trường các nước SNG và giải pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng hóa
của Việt Nam vào thị trường EU giai đoạn tới năm 2010 và tầm nhìn 2020.
- Thị trường EU và khả năng mở rộng xuất khẩu hàng hóa của Việt
Nam vào thị trường này/ Trần Nguyễn Tuyên, Tạp chí Nghiên cứu kinh
tế, 2002, Số 2. Bài phân tích đặc điểm của EU nói chung và tình hình phát
triển kinh tế của các quốc gia thành viên EU; Giới thiệu những bước phát
3
triển về quan hệ thương mại song phương giữa Việt Nam và EU; Những
khó khăn trong quan hệ thương mại giữa Việt Nam và EU và phương
hướng khắc phục.
- Kinh doanh với thị trường EU/ Phòng thương mại và công nghiệp
Việt Nam; Trung tâm thông tin thương mại Châu Âu tại Việt Nam, 2002.
Sách cung cấp những thông tin tổng quan về thị trường EU, trình bày các
chính sách, quy định và yêu cầu của thị trường EU cũng như cách thức tiếp
cận thị trường này; Phân tích, đánh giá thực trạng và triển vọng phát triển
quan hệ thương mại của Việt Nam với thị trường EU, đặc biệt trong giai
đoạn 2000-2010.
- Thị trường EU và khả năng xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam/ Trần
Chí Thành (Ch.b), Nxb. Lao động, 2002. Nội dung sách khái quát quá trình
hình thành và phát triển của Liên minh Châu Âu, phân tích những đặc điểm
của thị trường EU và những thuận lợi, khó khăn của các doanh nghiệp Việt
Nam khi xuất khẩu hàng hóa sang thị trường này; Phân tích và đánh giá thực
trạng hoạt động xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam vào thị trường EU trước
năm 1990 và từ 1990 đến nay; Các định hướng và giải pháp đẩy mạnh hoạt
động này trong giai đoạn 2000-2010 của nước ta. Phần phụ lục giới thiệu các
hiệp ước thành lập EU và quy chế nhập khẩu chung của EU hiện nay.
- Thị trường EU và những thuận lợi, khó khăn đối với xuất khẩu hàng
hóa của Việt Nam/ Tạp chí Kinh tế và phát triển, 2004, số 81. Bài viết đề cập
hai đặc điểm cơ bản: các yêu cầu về tiêu chuẩn hàng hóa nhập khẩu và các
chính sách ngoại thương (thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ, hạn ngạch, ...) đối
với hàng nhập khẩu vào thị trường EU; Đồng thời xem xét địa vị của EU
trên thị trường quốc tế và mối quan hệ hợp tác trong quá khứ và hiện tại giữa
EU và Việt Nam để đánh giá những khó khăn, thuận lợi trong hoạt động
xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường này trong quá trình EU mở rộng.
- Giải pháp thâm nhập thị trường EU/ Tạp chí Kinh tế và phát triển,
2005, số 91. Bài viết phân tích những đặc điểm về tập quán, thị hiếu tiêu
dùng, kênh phân phối và chính sách thương mại của thị trường EU. Trên cơ
4
sở đó giới thiệu 3 giải pháp chính đối với doanh nghiệp Việt Nam để tiếp
cận thị trường này, đó là: lựa chọn phương thức tiếp cận, tăng cường đầu tư
để tạo nguồn hàng thích hợp và nắm vững hệ thống pháp luật của thị
trường EU.
- Những giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa Việt Nam vào thị
trường EU/ Tạp chí Kinh tế và phát triển, 2005, số 92. Bài giới thiệu vị trí,
vai trò của thị trường EU trong thương mại quốc tế và tiềm năng, thực trạng,
những mặt hạn chế trong lĩnh vực xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường này;
Về nội dung ba nhóm giải pháp: nhóm các giải pháp về phía nhà nước, nhóm
các giải pháp về phía doanh nghiệp và các doanh nghiệp để tăng cường xuất
khẩu của Việt Nam vào thị trường EU giai đoạn từ nay đến 2010.
Tuy nhiên, từ góc độ phân tích và dự báo nhu cầu của thị trường EU
đối với các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam, trên cơ sở đó xây dựng chiến
lược các sản phẩm xuất khẩu sang EU từ nay tới năm 2010 theo hướng chủ
động và hiệu quả hơn trong bối cảnh hiện nay hầu như chưa có nghiên cứu
nào làm rõ được nội dung mà đề tài đề cập: (i) phân tích và dự báo nhu cầu
thị trường EU đối với các sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam từ nay đến năm
2010; (ii) đánh giá thực trạng xuất khẩu của Việt Nam tới thị trường EU giai
đoạn 2002 - 2007 qua một số chỉ tiêu như: kim ngạch xuất khẩu, thị phần, cơ
cấu sản phẩm xuất khẩu ...; (iii) nghiên cứu xây dựng định hướng chiến lược
về cơ cấu sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam tới thị trường EU từ nay đến
năm 2010; (iv) đề xuất một số giải pháp thực hiện định hướng chiến lược về
cơ cấu sản phẩm hàng xuất khẩu Việt Nam tới thị trường EU đến năm 2010.
Với ý nghĩa đó, đề tài được thực hiện sẽ đáp ứng yêu cầu thực tiễn của
việc đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của Việt Nam trước những biến động
của thị trường thế giới, trong đó có thị trường EU. Nếu hoạt động phân tích,
dự báo nhu cầu của thị trường EU đối với các sản phẩm xuất khẩu của Việt
Nam được thực hiện tốt đồng nghĩa với việc chúng ta có thể tăng trưởng kim
ngạch xuất khẩu tới thị trường này một cách chủ động và đạt hiệu quả trong
bối cảnh thị trường thế giới chứa đựng nhiều yếu tố phức tạp như hiện nay.
5
3. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
- Phân tích và dự báo xu hướng nhu cầu của thị trường EU đối với các
sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam từ nay tới năm 2010;
- Đánh giá thực trạng xuất khẩu một số sản phẩm chủ lực, cơ cấu sản
phẩm xuất khẩu của Việt Nam tới thị trường EU giai đoạn 2002 - 2007, qua
đó làm rõ được mối quan hệ giữa tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu với cơ
cấu sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam tới thị trường này;
- Nghiên cứu xây dựng định hướng chiến lược về cơ cấu sản phẩm
xuất khẩu của Việt Nam tới thị trường EU từ nay đến năm 2010;
- Trên cơ sở đó, đề tài đề xuất một số giải pháp thực hiện định hướng
chiến lược về cơ cấu sản phẩm xuất khẩu Việt Nam tới thị trường EU đến
năm 2010.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Cơ cấu sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam tới
thị trường EU, mối liên hệ giữa tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu của Việt
Nam tới thị trường EU với cơ cấu sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam tới thị
trường này được lựa chọn làm đối tượng nghiên cứu của đề tài.
Phạm vi nghiên cứu:
- Về mặt nội dung: Đề tài đánh giá hoạt động xuất khẩu của Việt Nam
tới thị trường EU giai đoạn 2002-2007; phân tích, dự báo xu hướng nhu cầu
của thị trường EU đối với các sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam từ nay đến
năm 2010; đồng thời làm rõ được mối liên hệ giữa tăng trưởng kim ngạch
xuất khẩu với cơ cấu sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam tới thị trường EU;
trên cơ sở đó xây dựng định hướng chiến lược về cơ cấu sản phẩm xuất khẩu
của Việt Nam tới thị trường EU đến năm 2010 và một số giải pháp thực hiện.
- Về thời gian: Khái quát đối tượng nghiên cứu giai đoạn 2002-2007,
định hướng đến năm 2010.
- Về không gian: Các sản phẩm xuất khẩu chủ lực của Việt Nam tới
thị trường EU giai đoạn 2002 - 2007.
6
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp sau:
- Tập hợp và nghiên cứu tài liệu, số liệu liên quan đến hoạt động xuất
khẩu của Việt Nam tới thị trường EU
- Phương pháp thống kê, phân tích, so sánh, tổng hợp
- Lấy ý kiến chuyên gia, hội thảo khoa học về những nội dung đề tài
nghiên cứu.
6. Đóng góp của Đề tài:
- Về phía Bộ Công Thương: Đề tài là một căn cứ khoa học và thực
tiễn quan trọng để Bộ có thể xây dựng được những chính sách phù hợp về
xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam tới thị trường EU từ nay đến 2010 nhằm
thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu.
- Đối với các doanh nghiệp xuất khẩu hàng hóa tới thị trường EU: Kết
quả nghiên cứu của đề tài sẽ là tài liệu tham khảo có tính chất định hướng
cho việc xây dựng, hoạch định kế hoạch phát triển hoạt động xuất khẩu
trong ngắn hạn, dài hạn để giúp doanh nghiệp chủ động và đạt hiệu quả hơn
trong hoạt động xuất khẩu tới thị trường này.
7. Kết cấu của đề tài:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung của đề tài gồm 3 chương như sau:
7
CHƯƠNG 1
PHÂN TÍCH DỰ BÁO NHU CẦU THỊ TRƯỜNG EU ĐỐI VỚI
CÁC SẢN PHẨM XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM
1.1
Thị trường EU
1.1.1 Đặc điểm thị trường EU
a. Quá trình hình thành và mở rộng của Liên minh châu Âu
Mong muốn thiết lập một Châu Âu thống nhất đã hình thành từ lâu,
nhưng do nhiều điều kiện chủ quan và khách quan khác nhau mà trước chiến
tranh thế giới thứ II những mong muốn đó mới chỉ dừng lại ở ý tưởng và
những ý tưởng này thực tế đã không trở thành hiện thực. Nhưng sau khi đại
chiến thế giới lần thứ II kết thúc, trước những thiệt hại trên mọi phương diện
đặc biệt là kinh tế do các cuộc tranh giành, phân chia lãnh thổ, phân chia thị
trường … gây ra, các nước châu Âu đều nhận thức được sự cần thiết phải có
sự liên minh thống nhất giữa các quốc gia trong khu vực, trước hết là để loại
bỏ các xung đột về lợi ích xảy ra trong khu vực, bởi trên thực tế cả hai cuộc
chiến tranh thế giới đều bắt nguồn từ các nước châu Âu. Ý tưởng về một
châu Âu thống nhất từ đó đã trở thành một trào lưu tư tưởng xuất hiện ở
nhiều nước châu Âu, thúc đẩy sự ra đời của nhiều phong trào, nhiều tổ chức
có thiên hướng liên Âu.
Tuyên bố của ngoại trưởng Pháp Robert Schuman ngày 9/5/1950, đánh
dấu một bước ngoặt trong lịch sử phát triển châu Âu. Đề nghị của Pháp là “đặt
toàn bộ nền sản xuất và tiêu thụ than và thép của Đức và Pháp dưới sự điều
hành của một cơ quan quyền lực chung trong một tổ chức mở đối với việc
tham gia của các nước châu Âu khác,...”. Đề nghị đó đã được 5 nước hưởng
ứng là Đức, Bỉ, Hà Lan, Luc-xem-bua và Italia. Ngày 18/4/1951, sau gần một
8
năm đàm phán, Hiệp ước thành lập Cộng đồng Than Thép châu Âu (ECSC)
đã được 6 nước trên ký tại Paris, đến ngày 23/7/1952, Cộng đồng Than Thép
châu Âu – tiền thân của liên minh châu Âu ngày nay chính thức ra đời.
Thành công bước đầu của thị trường chung về than và thép đã chứng
minh sự hoà nhập toàn diện kinh tế giữa các nước trong khu vực châu Âu
hoàn toàn có thể trở thành hiện thực, những lợi ích mà cộng đồng này mang
lại cho các nước tham gia là minh chứng rõ nét nhất. Đến năm 1957, sáu
nước trong Cộng đồng Than Thép đã tiến thêm một bước trong quan hệ hợp
tác đó là thành lập Cộng đồng Kinh tế (EEC) và Cộng đồng Năng lượng
Nguyên tử châu Âu (Euratom). Với việc thành lập 3 cộng đồng như trên, các
nước thành viên đã dần xoá bỏ rào cản giữa họ, tiến tới thiết lập một "thị
trường chung" thống nhất.
Năm 1967, đánh dấu một bước phát triển mới trong sự hợp tác giữa các
nước châu Âu, đó là các thể chế của 3 Cộng đồng này đã hoà nhập vào nhau
thành một Uỷ ban, một Hội đồng Bộ trưởng cũng như một Nghị viện chung.
Đến 1992, các nước thành viên ký hiệp ước Maastricht, đây là thỏa thuận
của các nước thành viên về sự thống nhất trong lĩnh vực quốc phòng, tư pháp
và nội vụ, với hiệp ước bổ sung quan trọng này và hệ thống các “Cộng
đồng” sẵn có, Liên minh châu Âu (EU) chính thức được thành lập.
Hợp tác về kinh tế và chính trị giữa các nước thành viên của EU thực
chất là các nước này cùng tìm tiếng nói chung trong nhiều vấn đề đối nội và
đối ngoại. Về đối nội, các nước cùng nhau đề ra những chính sách chung
trong nhiều lĩnh vực như thương mại, năng lượng, giao thông vận tải, nông
nghiệp, văn hoá, môi trường. Về đối ngoại, việc đàm phán thương thuyết, ký
kết những hiệp định thương mại hay các hiệp định về các vấn đề khác với
nước thứ 3 ngoài khối đều được đặt trong trong khuôn khổ “Chính sách đối
ngoại và An ninh Chung” của liên minh.
9
Với tiềm lực kinh tế sẵn có, các nền kinh tế phát triển ở trình độ cao và
đồng đều, tăng trưởng kinh tế tương đối ổn định, trao đổi thương mại, dịch
vụ thuận tiện, các nước thành viên chỉ mất một thời gian ngắn để xoá bỏ các
rào cản thương mại trong khối và dễ dàng chuyển "thị trường chung" thành
một "thị trường thống nhất" mà ở đó hàng hoá, dịch vụ, lao động và vốn
được tự do lưu chuyển giữa các quốc gia thành viên. Thị trường thống nhất
về cơ bản đã được hoàn thành năm 1993 sau khi hiệp ước Maastricht chính
thức có hiệu lực, tuy vẫn cần tiếp tục phải hoàn thiện trong một số lĩnh vực,
nhất là dịch vụ tài chính.
Cũng trong năm 1992, Liên minh châu Âu đã quyết định thành lập và
hiện thực hóa liên minh kinh tế và tiền tệ (EMU) bằng việc giới thiệu một
đồng tiền chung do Ngân hàng Trung ương châu Âu quản lý. Đồng tiền
chung, đồng Euro đã chính thức được đưa vào lưu thông từ ngày 1/1/2002
khi đồng bạc ngân hàng và đồng xu Euro thay thế đồng tiền quốc gia của 12
trong số 15 nước thành viên EU khi đó.
Mở rộng về địa chính trị
Liên minh châu Âu cũng liên tục mở rộng về địa chính trị qua nhiều lần
kết nạp thành viên mới, từ 6 thành viên ban đầu kết nạp thêm 3 thành viên
mới là Đan Mạch, Ailen, và Vương quốc Anh ngày 1/1/1973, đưa số thành
viên lên 9 thành viên. Sau đó, ngày 1/1/1983 Hy Lạp gia nhập và đến
1/1/1986 hai nước Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha gia nhập, đưa số thành viên
của liên minh lên 12 rồi lên 15 thành viên (thêm Áo, Thụy Điển và Phần Lan
gia nhập vào năm 1995). Ngày 1/5/2004 là lần mở rộng thứ 5 với việc gia
nhập của 10 nước Trung và Đông Âu, tháng 1 năm 2007 là lần kết nạp gần
đây nhất với 2 nước thành viên mới, đưa liên minh thành cộng đồng của 27
quốc gia thành viên. Để đảm bảo việc có thể tiếp tục vận hành có hiệu quả
với 27 thành viên, Liên minh châu Âu vẫn đang tiếp tục hợp lý hoá và hoàn
thiện các thể chế và luật pháp của mình.
10
Thể chế của Liên minh châu Âu
Để tăng cường hợp tác, thống nhất điều hành, quản lý ngày 8/4/1965,
sáu nước thành viên của 3 Cộng đồng ECSC, EEC và Euratom đã ký hiệp
ước sáp nhập thể chế của 3 Cộng đồng thành một Uỷ ban và một Hội đồng
duy nhất, đó là Uỷ ban của các Cộng đồng châu Âu hay thường được gọi tắt
Uỷ ban châu Âu và Hội đồng của Cộng đồng châu Âu mà ngày nay là Hội
đồng Liên minh châu Âu.
Trải qua quá trình phát triển trên 50 năm, thể chế hay bộ máy công
quyền của Liên minh châu Âu đã không ngừng được hoàn thiện. Đó là một
thể chế đặc biệt, không giống với bất kỳ tổ chức hợp tác quốc tế nào. Liên
minh Châu Âu cao hơn một tổ chức hợp tác quốc tế thông thường, biểu hiện
qua việc nắm giữ một phần chủ quyền dân tộc mà các quốc gia thành viên
nhượng cho, nhưng thấp hơn một nhà nước liên bang bởi trên thực tế các
quốc gia thành viên vẫn nắm “đại bộ phận” chủ quyền dân tộc mình, có quốc
hội riêng, quân đội riêng, hiến pháp riêng...
Sở dĩ có thể nói liên minh nắm giữ một phần chủ quyền dân tộc của các
nước thành viên vì các nước thành viên đã “nhượng” một phần chủ quyền dân
tộc (ban đầu là nhượng việc quản lý, sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của hai
ngành công nghiệp quan trọng là than và thép) cho các cơ quan của Cộng đồng
điều hành, quản lý các cơ quan này vừa đại diện cho lợi ích Cộng đồng, vừa đại
diện cho lợi ích các quốc gia thành viên, đồng thời đại diện cho lợi ích của
công dân trong Cộng đồng. Trong đó Uỷ ban của Cộng đồng bảo vệ lợi ích của
Cộng đồng, mỗi chính phủ quốc gia đều có đại diện của mình tại Hội đồng của
Liên minh để bảo vệ lợi ích của quốc gia mình và Nghị viện châu Âu do các
công dân của Liên minh châu Âu bầu ra bảo vệ lợi ích của công dân. Hiện nay
cơ cấu bộ máy tổ chức của liên minh gồm 3 cơ quan chính sau:
Nghị viện châu Âu: Ngay khi Cộng đồng Than Thép châu Âu chính
thức ra đời, đã có một cơ quan “đại diện” cho tiếng nói của công dân các
11
nước tham gia được thành lập, với tên gọi ban đầu là “Hội đồng chung”. Tới
khi Cộng đồng Kinh tế và Cộng đồng Năng lượng Nguyên tử châu Âu ra đời
thì “Hội đồng chung” này trở thành Hội đồng chung cho cả 3 Cộng đồng.
Ngày 19/3/1958 được đổi tên thành “Hội đồng Nghị viện châu Âu”, đến
ngày 30/3/1962, lại được đổi thành “Nghị viện châu Âu”. Nghị viện châu Âu
đại diện cho ý chí dân chủ của công dân các nước thuộc EU. Chức năng của
Nghị viện châu Âu là chia sẻ quyền lực với Hội đồng Liên minh châu Âu
trong việc lập pháp, tức là có nhiệm vụ thông qua các đạo luật như Thông tư,
Quy định, Quyết định; Cùng với Hội đồng thông qua và quản lý ngân sách
trong toàn khối; Giám sát hoạt động của Uỷ ban, giám sát lĩnh vực chính trị
trong toàn khối.
Hội đồng Liên minh châu Âu: Từ khi Hiệp ước hợp nhất 3 cộng đồng có
hiệu lực, thay vì mỗi Cộng đồng có một Hội đồng riêng, từ 1/7/1967 chỉ còn
một Hội đồng chung cho cả 3 Cộng đồng. Hội đồng có vai trò là cơ quan ra
quyết định chủ yếu của EU, là cơ quan đại diện cho quyền và lợi ích của các
nước thành viên mà các đại diện thông thường là cấp Bộ trưởng. Hội đồng
Liên minh châu Âu có trách nhiệm cơ bản là thực hiện quyền lập pháp cùng
với Nghị viện châu Âu; Phối hợp để ban hành các chính sách kinh tế lớn của
các nước thành viên; Thay mặt Liên minh ký kết các hiệp định quốc tế song
hoặc đa biên hay với các tổ chức quốc tế; Cùng tham gia quản lý ngân sách
với Nghị viện; Ra những quyết định cần thiết để thực hiện các chính sách đối
ngoại và an ninh của cộng đồng.
Uỷ ban châu Âu: Cũng từ 1/7/1967, “Cơ quan quyền lực chung” của
Cộng đồng Than Thép đã chính thức hợp nhất với 2 Uỷ ban của Cộng đồng
Kinh tế và Cộng đồng Nguyên tử lấy tên là Uỷ ban của các Cộng đồng châu
Âu, được gọi tắt là Uỷ ban châu Âu. Đây là cơ quan đại diện và bảo vệ
quyền lợi chung của EU. Chủ tịch và các thành viên Uỷ ban do các nước
12
thành viên chỉ định và được Nghị viện thông qua. Uỷ ban châu Âu là lực
lượng chỉ huy của Liên minh, Uỷ ban có quyền dự thảo pháp luật trình Nghị
viện và Hội đồng Liên minh châu Âu. Là cơ quan hành pháp, Uỷ ban có
trách nhiệm thực thi pháp luật, thực hiện các chương trình ngân sách đã được
Nghị viện và Hội đồng thông qua; Theo dõi việc thực thi các Hiệp ước và
cùng Toà tư pháp đảm bảo luật pháp Cộng đồng được thực thi nghiêm chỉnh;
Thay mặt Liên minh trên trường quốc tế và đàm phán các thoả thuận quốc tế,
chủ yếu trong lĩnh vực thương mại và hợp tác kinh tế.
Ngoài ra, cùng tham gia vào việc bảo vệ và thực thi các Hiệp ước đã ký
kết cũng như luật pháp của Cộng đồng còn có 2 cơ quan quan trọng khác đó
là Toà án và Viện Kiểm kế châu Âu. Toà án bảo đảm việc tôn trọng và tuân
thủ luật pháp của Cộng đồng, là cơ quan giải quyết các tranh chấp có thể có
giữa các nước thành viên, giữa các cơ quan của Cộng đồng, giữa các doanh
nghiệp và thậm chí cả giữa các cá nhân. Viện Kiểm kế châu Âu có nhiệm vụ
kiểm tra tính hợp pháp các khoản thu - chi, bảo đảm quản lý tốt ngân sách
Cộng đồng.
Ngoài các thể chế trên, EU còn có hệ thống các uỷ ban khu vực hay uỷ
ban kinh tế xã hội đại diện cho quan điểm và quyền lợi của các tổ chức xã
hội, các nhóm lợi ích trong cộng đồng. Các uỷ ban này sẽ tham vấn về những
vấn đề liên quan đến chính sách kinh tế xã hội, đưa ra quan điểm riêng của
mình về những vấn đề mà uỷ ban cho là quan trọng, góp phần hoàn thiện các
thể chế, chính sách của liên minh.
Hiện nay, Liên minh châu Âu đang trong quá trình bàn thảo một hiến
pháp mới nhằm cải cách và hoàn thiện thể chế để phù hợp với điều kiện mới
và có đủ năng lực điều hành một liên minh của 27 thành viên và có thể nhiều
hơn nữa.
13
b. Đặc điểm thị trường EU
Từ năm 1968, EU đã là một thị trường thống nhất hải quan, có định
mức thuế quan chung cho các nước thành viên. Hiệp ước Maastricht ký kết
tại Hà Lan mở đầu cho sự thống nhất cao giữa các nước thành viên trên
nhiều lĩnh vực quan trọng như kinh tế-tiền tệ, chính trị, an ninh quốc phòng.
Ngày 1/1/1993 Hiệp ước Maastricht bắt đầu có giá trị hiệu lực, cũng là ngày
thị trường chung Châu Âu được chính thức hình thành thông qua việc xóa bỏ
các đường biên giới nội bộ trong Liên Minh (biên giới lãnh thổ quốc gia,
biên giới hải quan).
Thị trường chung có thể hiểu là một không gian rộng lớn bao gồm toàn
bộ lãnh thổ các quốc gia thành viên trong đó hàng hoá, lao động, vốn và dịch
vụ được lưu chuyển hoàn toàn tự do giống như trong một thị trường quốc
gia. Gắn liền với sự ra đời của thị trường chung là một chính sách thương
mại chung, điều tiết hoạt động xuất nhập khẩu và lưu thông hàng hoá, dịch
vụ trong nội khối.
Là một khu vực thị trường chung rộng lớn, EU có những đặc điểm chủ
yếu sau:
Thứ nhất, Eu là một thị trường rộng lớn, có nhu cầu đa dạng, phong phú về
hàng hóa, dịch vụ.
Sau nhiều lần mở rộng về địa chính trị, hiện nay liên minh châu Âu là
cộng đồng rộng lớn bao gồm toàn bộ lãnh thổ 27 quốc gia trong khu vực.
Với đặc thù là một liên minh của nhiều quốc gia mà ở đó có nhiều dân tộc,
nhiều cộng đồng khác nhau, mỗi cộng đồng mỗi dân tộc đều có nhu cầu
khác nhau về hàng hóa, dịch vụ. Những nhu cầu, xu hướng tiêu dùng hàng
hóa dịch vụ khác nhau do điều kiện tự nhiên, tập quán lối sống, truyền thống
lịch sử văn hóa của từng quốc gia, từng khu vực quy định. Thậm chí ngay
14
trong một quốc gia một cộng đồng và ở những thời điểm khác nhau trong
năm nhu cầu về các hàng hóa dịch vụ cũng khác nhau, mỗi thị trường có
những đặc điểm, phong cách tiêu dùng riêng. Những điều đó đã tạo nên một
thị trường EU có nhu cầu rất đa dạng về hàng hóa và dịch vụ hấp dẫn với các
nhà xuất khẩu toàn thế giới.
Thứ hai, trên thị trường EU giá cả hàng hóa không phải là yếu tố quyết
định nhất.
Trình độ phát triển kinh tế cao là yếu tố cơ bản chi phối đặc điểm này
của thị trường EU. Do trình độ phát triển kinh tế cao, mức thu nhập bình
quân đầu người cao nên đối với thị trường này giá cả hàng hoá và dịch vụ
không phải là yếu tố được quan tâm cao nhất, mà yêu cầu trước hết đối với
hàng hóa và dịch vụ là chất lượng, mẫu mã, các tiêu chuẩn liên quan đến bảo
vệ môi trường và bảo vệ sức khoẻ người tiêu dùng. Khi tất cả những yêu cầu
này được đáp ứng, người tiêu dùng EU mới xem xét đến giá cả như một yếu
tố quyết định có tiêu dùng hay không đối với hàng hóa dịch vụ. Xuất phát từ
những yêu cầu này, EU đã xây dựng một hệ thống hàng rào kỹ thuật đối với
hàng hóa dịch vụ phức tạp nhất, khắt khe nhất thế giới. Bất kỳ sản phẩm nào
trước khi vào được thị trường EU đều phải đáp ứng được hệ thống tiêu
chuẩn này, nếu không sẽ bị hủy bỏ hoặc trả lại.
Thứ ba, người tiêu dùng EU thích tìm mua những sản phẩm có thương hiệu
nổi tiếng thế giới.
Xuất phát từ một nền kinh tế có trình độ phát triển cao, mức thu nhập
bình quân đầu người vào hàng cao nhất thế giới, người tiêu dùng EU đã hình
thành thói quen sử dụng các sản phẩm có nhãn hiệu nổi tiếng trên toàn thế
giới. Với trình độ dân trí cao, người dân của khu vực EU hầu hết đều tin
rằng, những nhãn hiệu nổi tiếng sẽ gắn liền với những sản phẩm có chất
15
lượng tốt, có uy tín cao. Khi tiêu dùng những sản phẩm mang nhãn hiệu nổi
tiếng, họ sẽ hoàn toàn an tâm về chất lượng và độ an toàn đối với sức khỏe
và chất lượng cuộc sống. Trong nhiều trường hợp, giá cả những sản phẩm
của các thương hiệu nổi tiếng rất đắt, nhưng họ vẫn mua và không muốn
thay đổi sang các sản phẩm không nổi tiếng khác cho dù giá rẻ hơn, mà đôi
khi chất lượng có thể không thua kém nhiều. Đặc biệt, đối với sản phẩm của
các nhà sản xuất không có danh tiếng, hoặc những sản phẩm có nhãn hiệu ít
người biết đến thì rất khó tiêu thụ trên thị trường này. Hiện nay, người tiêu
dùng EU vẫn rất e ngại khi mua những sản phẩm như vậy, vì theo quan niệm
của họ sản phẩm của các nhà sản xuất không có danh tiếng đồng nghĩa với
không đảm bảo về chất lượng, vệ sinh thực phẩm và an toàn cho người sử
dụng, không an toàn đối với sức khoẻ và cuộc sống của họ. Đó là lý do tại
sao các doanh nghiệp muốn thâm nhập thị trường EU trong giai đoạn đầu
thường phải thông qua một thương hiệu nổi tiếng sẵn có.
Thứ tư, Thị trường EU là một trong những thị trường tiêu thụ hàng hóa và
dịch vụ lớn nhất thế giới.
Với gần 500 triệu dân có thu nhập cao, EU là một thị trường rộng lớn
và đầy tiềm năng đối với các nhà xuất khẩu trên toàn thế giới. EU là một
cộng đồng kinh tế mạnh, là một trong ba trụ cột của kinh tế thế giới, mức độ
tiêu dùng và khả năng sẵn sàng chi trả cao. EU luôn là đích đến của các nhà
xuất khẩu lớn trên toàn thế giới. Với thu nhập, mức sống cao và khá đồng
đều, người tiêu dùng yêu cầu rất khắt khe về chất lượng và độ an toàn của
sản phẩm nói chung, còn riêng đối với thực phẩm thì chất lượng và đảm bảo
vệ sinh là hàng đầu, cùng với xu thế tiêu dùng hàng hóa có vòng đời ngắn
ngày càng làm cho dung lượng thị trường EU lớn hơn. Thành công trên thị
trường EU cũng có nghĩa là các nhà xuất khẩu có nhiều cơ hội để thành công
trên nhiều thị trường khác trên thế giới.
16
Thứ năm, thị trường EU cũng giống như đa số các thị trường quốc gia
khác có thể phân khúc thị trường thành 3 nhóm người tiêu dùng tiêu biểu.
Là một cộng đồng đa dạng về văn hóa, các nền kinh tế vẫn có những
sự khác biệt, mức thu nhập có sự chênh lệch nhất định, nhất là từ 2 lần mở
rộng gần đây nhất, nhưng có thể phân khúc thị trường thành 3 nhóm người
tiêu dùng khác nhau: (1) Nhóm có khả năng thanh toán ở mức cao, chiếm
gần 20% dân số của EU, tiêu dùng hàng có chất lượng tốt nhất và giá cả
cũng đắt nhất hoặc những mặt hàng hiếm và độc đáo; (2) Nhóm có khả năng
thanh toán ở mức trung bình, chiếm khoảng gần 70% dân số, sử dụng chủng
loại hàng có chất lượng không cao bằng so với nhóm 1 và giá cả cũng rẻ
hơn; (3) Nhóm có khả năng thanh toán ở mức thấp, chiếm khoảng hơn 10%
dân số, tiêu dùng những loại hàng có chất lượng và giá đều thấp hơn so với
hàng của nhóm 2. Hiện nay, đối tượng tiêu dùng hàng Việt Nam tại EU vẫn
là nhóm 2 và 3. Trong nhóm đối tượng khách hàng này, hàng Việt Nam vẫn
đang gặp phải sự cạnh tranh lớn từ nhiều nước đang phát triển khác. Các đối
thủ cạnh tranh chính của hàng Việt Nam là hàng Trung Quốc và của các
nước ASEAN khác (Thái Lan, Indonesia, Malaysia...).
c. Đặc điểm tiêu dùng EU đối với một số nhóm mặt hàng xuất khẩu chủ lực
của Việt Nam.
Với nhóm mặt hàng may mặc và giày dép: Người tiêu dùng EU đặc biệt
quan tâm tới chất lượng và thời trang của hai loại sản phẩm này, và hiện nay
yếu tố thời trang ngày càng giữ vai trò quan trọng hơn, thậm chí đã trở thành
yếu tố quyết định sự lựa chọn tiêu dùng nhóm sản phẩm này. Đối với nhóm
hàng giày dép, người tiêu dùng EU vẫn đang có xu hướng đi giày vải. Xu
hướng này ngày càng tăng lên tỷ lệ thuận với nhu cầu tiêu dùng giày dép
tăng hàng năm ở EU. Nhu cầu tiêu dùng của người dân EU với hai nhóm
17
mặt này thay đổi rất nhanh chóng, theo xu thế thời trang hàng năm, đặc biệt
về mẫu mốt, nên các nhà xuất khẩu phải luôn chú ý theo sát xu hướng thời
trang để có những điều chỉnh cho phù hợp.
Với nhóm hàng thủy hải sản: Rất chú trọng đến vệ sinh an toàn thực phẩm,
người tiêu dùng EU không mua những sản phẩm thủy hải sản nhập khẩu bị
nhiễm độc do tác động của môi trường hoặc do chất phụ gia không được
phép sử dụng. Với các sản phẩm thủy hải sản đã qua chế biến, người Châu
Âu chỉ tiêu dùng những sản phẩm đóng gói có ghi rõ tên sản phẩm, nơi sản
xuất, các điều kiện bảo quản và sử dụng, mã số và mã vạch. Hiện nay người
tiêu dùng ở nhiều nước phát triển nói chung cũng như ở Châu Âu ngày càng
sử dụng nhiều mặt hàng thủy sản trong bữa ăn hàng ngày vì họ cho rằng mặt
hàng này giàu dinh dưỡng, tốt cho sức khỏe đồng thời có thể giảm béo. Do
vậy, nhu cầu tiêu thụ thủy, hải sản của thị trường EU đã liên tục tăng lên và
sẽ còn tiếp tục tăng trong những năm tới. Trong các loại thủy sản nhập khẩu,
cá tra, basa của Việt Nam đang ngày càng được biết đến và tiêu thụ nhiều
hơn, đã đạt được tốc độ tăng trưởng khá cao trong những năm gần đây.
Với nhóm hàng nông sản: Những mặt hàng nông sản được tiêu thụ nhiều ở
EU như cà phê, chè, các loại gia vị đều phải đảm bảo các tiêu chuẩn mà EU
đã đề ra, và phải đảm bảo độ tươi ngon, hương vị độc đáo, chất lượng đồng
đều. Các loại ngũ cốc EU nhập khẩu cho tiêu dùng hoặc xuất khẩu sang nước
thứ 3 cũng phải đảm bảo đầy đủ các quy định theo tiêu chuẩn Châu Âu.
Với nhóm hàng đồ gỗ và thủ công mỹ nghệ : Người Châu Âu có thời điểm
rất ưa chuộng những sản phẩm làm từ gỗ tự nhiên vì sự sang trọng và bền
đẹp của chúng. Nhưng hiện nay họ đang chuyển sang tiêu thụ nhiều sản
phẩm có nguồn gốc nhân tạo vì họ cho rằng hiện nay gỗ tự nhiên đang bị
khai thác quá mức và cần được bảo vệ. Đặc biệt, thị trường EU rất ưa thích
những sản phẩm độc đáo, được làm thủ công, với những mẫu mã đa dạng.
Theo cách tiếp cận dựa trên quan điểm marketing, đặc điểm của thị
trường EU còn có thể được phân chia như sau:
18
Thứ nhất, chất lượng và dịch vụ hàng hóa ngày càng được yêu cầu cao
Với sức mua và khả năng cung ứng các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ
không ngừng tăng lên, người tiêu dùng hoàn toàn có quyền yêu cầu cao hơn
về tiêu chuẩn, chất lượng của sản phẩm. Thực tế, ở Châu Âu, người tiêu
dùng hầu như không chấp nhận các sản phẩm có chất lượng thấp hoặc trung
bình. Không chỉ có vậy, một sản phẩm có chất lượng tốt giá cả hợp lý chưa
chắc đã thành công mà cần phải có một sự tiếp cận khách hàng và dịch vụ
khách hàng có chất lượng cao, đáp ứng được nhu cầu, phù hợp sở thích thói
quen tiêu dùng. Sự nhận thức cao của người tiêu dùng dẫn đến nhu cầu
được biết nhiều hơn về những thông tin cần thiết về đặc điểm, cách sử dụng
của sản phẩm mà họ đã và đang tiêu dùng, họ muốn có được sự giúp đỡ
nhanh chóng và có hiệu quả trong trường hợp gặp khó khăn với sản phẩm.
Trong thời đại ngày nay, khi mà sự khác biệt giữa chất lượng các sản phẩm
ngày càng bị thu hẹp, các doanh nghiệp phần lớn đều tận dụng khả năng tạo
ra sự khác biệt ở mức độ và phạm vi cung ứng các dịch vụ để tạo ưu thế
cạnh tranh. Dịch vụ đã trở thành một nhân tố quan trọng trong khả năng
cạnh tranh cao của hàng hóa, bên cạnh đó sự độc đáo của sản phẩm cũng
góp phần ngày càng lớn vào khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Minh chứng
rõ nét là các sản phẩm sản xuất hàng loạt đang nhường chỗ cho các sản
phẩm được sản xuất theo các đơn hàng cụ thể. Những hệ thống quản lý sản
xuất hiện đại được điều khiển hoàn toàn bởi máy tính cùng với sự phát triển
của mạng Internet đã làm cho điều này trở nên phổ biến hơn. Với các thị
trường phát triển như EU, nhất là 15 nước EU trước khi mở rộng 2 lần gần
đây, khách hàng hiện nay đã có thể đưa ra yêu cầu riêng đối với sản phẩm
thông qua Internet, điều đã được thực hiện trong ngành công nghiệp vi tính
và công nghiệp chế tạo xe hơi. Trong một số lĩnh vực công nghiệp nhẹ như
may mặc, các máy quét điện tử và việc đặt hàng bằng các phương tiện điện
tử cho phép các nhà sản xuất cung ứng các sản phẩm theo yêu cầu và vừa
vặn với cơ thể của từng khách hàng cụ thể.
19
Thứ hai, hình ảnh doanh nghiệp có trách nhiệm ngày càng trở nên quan trọng.
Hình ảnh của sản phẩm ngày càng gắn liền và có sự liên hệ chặt chẽ với
hình ảnh của các doanh nghiệp sản xuất ra sản phẩm. Những hiểu biết của
người tiêu dùng EU ngày nay đã tăng lên rất nhiều, trước đây người tiêu
dùng chỉ đơn thuần quan tâm đến sản phẩm, cách thức sử dụng mà ít quan
tâm đến doanh nghiệp sản xuất ra sản phẩm đó, nhưng hiện nay, người tiêu
dùng đã có sự quan tâm nhiều hơn đến các doanh nghiệp và quá trình sản
xuất ra sản phẩm. Ở các thị trường phát triển đặc biệt là EU, người tiêu dùng
ngày càng có ảnh hưởng mạnh mẽ đến trách nhiệm của các công ty đối với
xã hội và môi trường, hầu hết các công ty đa quốc gia đều thừa nhận sức
mạnh của người tiêu dùng. Một thái độ coi thường yêu cầu chính đáng của
người tiêu dùng có thể gây ra nhiều tác động tiêu cực đối với hoạt động sản
xuất kinh doanh của công ty. Từ đó đã hình thành các quy tắc ứng xử của
các công ty đối với các vấn đề về sinh thái và môi trường, các tiêu chuẩn xã
hội. Hình ảnh một doanh nghiệp có trách nhiệm cho phép doanh nghiệp đưa
một mức giá cao hơn bình thường nhưng người tiêu dùng hoàn toàn có thể
vui vẻ chấp nhận.
Các nhà xuất khẩu ở các nước đang phát triển phải nhận thức được rằng
các công ty ở Châu Âu đã và đang chuyển các yêu cầu cao đối với môi
trường và xã hội trong sản xuất từ người tiêu dùng sang các nhà cung cấp
của họ. Hình ảnh của các công ty gắn liền với hình ảnh của nhà cung cấp của
họ. Trách nhiệm về môi trường và xã hội đương nhiên trở thành một vấn đề
quan trọng của những nhà cung cấp ở các nước đang phát triển.
Thứ ba, giá cả hàng hóa và dịch vụ vẫn có vai trò trong quyết định mua hàng
Mặc dù thị trường Châu Âu có sức mua ngày càng tăng và người tiêu
dùng ngày càng coi các yếu tố chất lượng, dịch vụ, hình ảnh, trách nhiệm xã
20
hội và sự thuận tiện như những nhân tố quan trọng trong quyết định mua
sắm, nhưng tầm quan trọng của giá cả hàng hóa cũng không được phép xem
nhẹ. Mặc dù khách hàng có thể vui lòng trả một mức giá cao hơn nếu những
yêu cầu của họ về chất lượng, dịch vụ, hình ảnh, và sự thuận tiện được đáp
ứng, các doanh nghiệp cũng cần lưu ý rằng sự cạnh tranh bao giờ cũng khốc
liệt. Vì thế giá cả sẽ vẫn là một yếu tố quan trọng và là một trong những yếu
tố quyết định trong quá trình mua sắm, bởi nếu hai sản phẩm đều có chất
lượng như nhau, đều là sản phẩm của các thương hiệu nổi tiếng đáp ứng đầy
đủ các yêu cầu theo tiêu chuẩn chung thì đương nhiên sản phẩm nào có giá
cả thấp hơn sẽ được lựa chọn. Sự cạnh tranh quyết liệt luôn đặt giá cả dưới
một áp lực phải được giảm liên tục. Các nhà cung cấp ở các nước phát triển
phải không ngừng phấn đấu cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động để
đạt được hiệu quả cao trong sản xuất, đưa ra mức giá thích hợp nhất.
Thứ tư, sự hài lòng của khách hàng Châu Âu –yếu tố quyết định sự thành
công lâu bền trên thị trường EU
Thành công lớn nhất của các nhà sản xuất và xuất khẩu là đem lại sự hài
lòng cao nhất cho khách hàng trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt.
Sự thoả mãn cao của khách hàng là những gì mà một doanh nghiệp, đặc biệt
các doanh nghiệp xuất khẩu vào EU, cần phấn đấu đạt được. Đó là cách tốt
nhất để thu hút và giữ được khách hàng với sản phẩm và dịch vụ do doanh
nghiệp cung cấp, tạo ra những mối quan hệ làm ăn lâu dài, bền vững. Sự gắn
kết của khách hàng với sản phẩm gắn liền với một sự thoả mãn cao khi tiêu
dùng hàng hóa, dịch vụ đó. Chúng tạo ra một sự ưa thích về mặt tình cảm,
một điều còn đang thiếu trong sự thoả mãn thông thường mà khi đó người tiêu
dùng có thể dễ dàng thay đổi về hàng hoá và nhà cung cấp. Những khách
hàng được thoả mãn cao cũng ít quan tâm hơn đến vấn đề giá cả.
21
Một trong những chìa khoá đạt được sự hài lòng của khách hàng là vấn
đề tiếp thị và mối quan hệ với khách hàng. Nghĩa là các doanh nghiệp các
nhà xuất khẩu phải xây dựng được những mối liên hệ chặt chẽ với tất cả
những người có lợi ích liên quan trong toàn bộ quá trình sản xuất lưu thông
và tiêu dùng hàng hóa, mang lại những giá trị dài hạn cho khách hàng, từ đó
dẫn đến sự hài lòng về lâu dài của khách hàng.
1.1.2 Các vấn đề liên quan đến hàng hóa nhập khẩu vào EU
Chính sách thương mại chung của EU hiện nay đang hướng tới xóa bỏ
dần những hạn chế trong buôn bán, giảm thuế, tạo thuận lợi cho các hoạt
động buôn bán bằng cách kết hợp các chính sách song phương, đa phương
và khu vực.
a. Chính sách ngoại thương
Tất cả các nước thành viên EU áp dụng chính sách ngoại thương chung
đối với các quốc gia, vùng lãnh thổ ngoài khối. Uỷ ban Châu Âu là người đại
diện duy nhất cho Liên minh trong đàm phán, ký các Hiệp định thương mại
và dàn xếp các tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực này.
EU đang thực hiện chương trình mở rộng hàng hoá dưới hình thức đẩy
mạnh tự do hoá thương mại (giảm dần thuế quan đánh vào hàng hoá XNK
và tiến tới xoá bỏ hạn ngạch, bỏ chế độ ưu đãi thuế quan GSP). Hiện nay, 27
nước thành viên EU áp dụng một biểu thuế quan chung đối với hàng hoá
XNK. Đối với hàng nhập khẩu, mức thuế trung bình đánh vào hàng nông sản
là 18%, hàng công nghiệp là 2%.
Chính sách ngoại thương của EU gồm chính sách thương mại tự trị và
chính sách thương mại dựa trên cơ sở Hiệp định được xây dựng trên nguyên
tắc không phân biệt đối xử, minh bạch, có đi có lại và cạnh tranh công bằng.
Các biện pháp được áp dụng phổ biến trong chính sách này là thuế quan, hạn
ngạch, hàng rào kỹ thuật, chống bán phá giá và trợ cấp xuất khẩu.
22
b. Hệ thống thuế quan
Các nước thuộc Liên minh châu Âu thống nhất áp dụng Hệ thống thuế
quan chung. Thuế nhập khẩu thường được tính bằng cách lấy giá trị hàng
hóa nhập khẩu (tính theo giá CIF) nhân với thuế suất của loại hàng hóa đó.
Trong đó, giá trị hàng hóa nhập khẩu tính theo giá CIF bao gồm: tiền hàng,
các chi phí (đóng gói, làm thủ tục xuất khẩu, nộp thuế xuất khẩu (nếu có),
lập bộ chứng từ xuất khẩu, cước vận tải, phí bảo hiểm...). Thuế suất phụ
thuộc vào loại hàng và xuất xứ của hàng nhập khẩu, được xây dựng trên
nguyên tắc: Những mặt hàng trong nước chưa sản xuất được hoặc sản xuất
không đủ, hoặc cần thiết để phát triển những ngành sản xuất trong nước thì
sẽ được miễn thuế hoặc hưởng thuế suất thấp. Ngược lại, những mặt hàng
trong nước đã sản xuất đủ hay để khuyến khích trong nước tự sản xuất thì sẽ
phải chịu thuế suất cao. Theo nguyên tắc này, hầu hết nguyên liệu nhập khẩu
vào EU được miễn thuế nhập khẩu hoặc chịu thuế suất thấp, còn các mặt
hàng nông sản thực phẩm phải chịu mức thuế cao. Cụ thể, các mặt hàng thịt,
các sản phẩm sữa, ngũ cốc, rau hoa quả chế biến và không chế biến chịu
mức thuế cao nhất từ 0 – 470,8%. Đối với các mặt hàng khác có mức thuế
từ 0 – 36,6%. Để tăng sức cạnh tranh của hàng hóa và đẩy mạnh xuất khẩu,
bên cạnh việc miễn thuế hoặc đánh thuế thấp, đối với các nguyên, phụ liệu,
bán thành phẩm nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu , EU còn cho phép
được “treo” thuế (tức là khi nhập khẩu nguyên liệu chỉ tính thuế chứ chưa
phải đóng thuế, khi xuất hàng, sẽ tính toán bù trừ và doanh nghiệp chỉ phải
đóng thuế phần nguyên liệu không dùng để làm hàng xuất khẩu. Ngoài ra,
EU còn có chính sách thuế ưu đãi để phát triển một số ngành quan trọng,
trong đó ngành Công nghệ thông tin và ngành Dược là những ngành được
quan tâm.
23
Biểu thuế quan của EU được gọi là thuế quan đặc biệt, được thực hiện
đối với hàng nhập khẩu từ một số nước đang phát triển và được hưởng đơn
thuần ưu đãi GSP của EU. GSP là chế độ ưu đãi thuế quan đặc biệt của các
nước công nghiệp phát triển dành cho các nước đang và chậm phát triển.
Bản chất của chế độ GSP là các nước công nghiệp phát triển sẽ áp dụng chế
độ miễn thuế hoặc đánh thuế rất thấp cho hàng hóa của các nước đang và
kém phát triển, nhằm giúp hàng hóa của các nước này có điều kiện thâm
nhập được vào thị trường các nước phát triển.
Để được hưởng GSP thì phải đạt các điều kiện: phải là nước chậm và
đang phát triển; hàng hóa phải đáp ứng đủ 3 điều kiện cơ bản: Xuất xứ từ
nước được hưởng, điều kiện vận tải, giấy chứng nhận xuất xứ.
+ Về điều kiện xuất xứ từ nước được hưởng, EU quy định có 2 loại:
Đối với sản phẩm hoàn toàn được sản xuất tại lãnh thổ nước được hưởng ưu
đãi như: Khoáng sản, động thực vật, thủy sản đánh bắt trong lãnh hải và
hàng hóa sản xuất từ sản phẩm đó được xem là có xuất xứ và được hưởng ưu
đãi GSP; Đối với các sản phẩm có thành phần nhập khẩu, EU quy định hàm
lượng trị giá sản phẩm sáng tạo tại nước hưởng GSP (tính theo giá xuất
xưởng) phải đạt 60% tổng trị giá hàng liên quan. Tuy nhiên, đối với một số
nhóm hàng thì hàm lượng này thấp hơn, EU quy định cụ thể tỷ lệ trị giá và
công đoạn gia công đối với một số nhóm hàng mà yêu cầu phần trị giá sáng
tạo thấp hơn 60% (máy điều hòa nhiệt độ, tủ lạnh không dưới 40%, đồ trang
trí làm từ kim loại không dưới 30%, giầy dép chỉ được hưởng GSP nếu các
bộ phận như: mũi giầy, đế dầy... ở dạng rời và có xuất xứ từ nước thứ 3
cũng được hưởng GSP hoặc nhập khẩu...);
+ Về điều kiện vận tải (hay điều kiện gửi hàng), EU yêu cầu hàng hóa
phải được gửi thẳng từ nước được hưởng đến nước cho hưởng. Quy định này
24
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 30 trang mẫu của tài liệu "Đề tài Nghiên cứu xây dựng định hướng chiến lược về cơ cấu sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam tới thị trường EU đến năm 2010", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- de_tai_nghien_cuu_xay_dung_dinh_huong_chien_luoc_ve_co_cau_s.pdf