Luận văn Thực trạng lạm phát ở nước ta hiện nay
Luận văn:
"Thực trạng lạm phát ở nước ta hiện nay"
1
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 1
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ LẠM PHÁT.....................................2
I. KHÁI NIỆM VỀ LẠM PHÁT..........................................................................................................................2
II. CÁC LOẠI HÌNH CỦALẠM PHÁT.............................................................................................................2
1. Căn cứ vào mức độ........................................................................................................ 2
2. Căn cứ vào nguyên nhân chủ yếu gây ra lạm phát........................................................ 3
3.Căn cứ vào quá trình bộc lộ hiện hình lạm phát............................................................ 6
III-TÁC ĐỘNG CỦA LẠM PHÁT ĐẾN NỀNKINH TẾ................................................................................6
1-Tác động tích cực của lạm phát đến nền kinh tế............................................................ 6
2-Tác động tiêu cực của lạm phát đến nền kinh tế............................................................ 7
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH LẠM PHÁT TRONG NỀN KINH TẾ
NƯỚC TA..........................................................................................8
I) THỜI KỲ TRƯỚC ĐỔI MỚI TRƯỚC 1986..................................................................................................8
II) THỜI KÌ BẮT ĐẦU ĐỔI MỚI 1986 – 1990.................................................................................................9
III) THỜI KÌ KINH TẾ ĐI VÀO ỔN ĐỊNH, LẠM PHÁT ĐƯỢC KIỂM SOÁT 1991-1995......................10
IV) THỜI KỲ KINH TẾ CÓ DẤU HIỆUTRÌ TRỆ 1997– 2000...................................................................11
V) THỜI KÌ KINHTẾ CÓ BƯỚCPHÁT TRIỂN MỚI 2001 – 2003.............................................................12
VI) LẠM PHÁT GIAI ĐOẠN 2004 – 2005......................................................................................................12
VII)LẠM PHÁT GIAI ĐOẠN 2006-2007:.......................................................................................................13
VII)TÌNH HÌNH LẠM PHÁT NHỮNG THÁNG ĐẦUNĂM 2008 VÀ DỰ BÁO ĐẾN CUỐI NĂM:...14
2
CHƯƠNG III-CÁC GIẢI PHÁP VẬN DỤNG VÀO VIỆT NAM NHẰM KIỀM
CHẾ VÀ KHẮC PHỤC TÌNH TRẠNG LẠM PHÁT TRONG NỀN
KINH TẾ..........................................................................................16
I) QUAN ĐIỂM CỦAĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC.............................................................................................16
II) CÁC CHÍNH SÁCH VÀGIẲI PHÁP NHẰM KIỀM CHẾ VÀ KHẮC PHỤC LẠM PHÁT................17
1. Chính sách , giải pháp và cơ chế quản lý vĩ mô.......................................................... 17
2. Các giải pháp cấp vi mô (đối với các doanh nghiệp và đơn vị).................................. 19
KẾT LUẬN
20
3
LỜI NÓI ĐẦU
Lạm phát thường xuyên và dai dẳng là một hiện tượng mới bẩm sinh ở các
nước tư bản, nó được coi như một con quỷ ghê gớm nhất trên trái đất, ít nhất là xét
về triển vọng chính sách kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên lạm phát cũng có tính chất hai
mặt của nó. Kích thích nền kinh tế phát triển nếu tốc độ tăng của nó phù hợp với
tốc độ tăng trưởng kinh tế và ngược lại nếu tốc độ tăng lạm phát cao nó sẽ gây ra
những biến động kinh tế hết sức nghiêm trọng: Như biến dạng cơ cấu sản xuất về
việc làm về địa vị... Và lạm phát thường xẩy ra sau các cuộc khủng hoảng lớn về
kinh tế và xã hội.
Ngày nay, xu hướng quốc tế hoá, toàn cầu hoá ở nhiều lĩnh vực của đời sống
đang được diển ra trên phạm vi toàn thế giới thì vấn đề lạm phát nó không còn giới
hạn trong các nước tư bản mà nó đã đến với các nước đang phát triển cũng như
các nước ở thế giới thứ ba. Riêng các nước xã hội chủ nghĩa mà cụ thể là Việt
Nam, cuối những năm 80 đã trải qua cuộc khủng hoảng kinh tế khá nghiêm trọng,
sản xuất sút kém giá cả tăng với tốc độ phi mã. Cao điểm nhất là thời kỳ 1986 -
1988, nền kinh tế nước ta vẫn hoạt động theo cơ chế kinh tế tập trung quan liêu bao
cấp, hàng hoá sản xuất có hạn mà nhu cầu thì lại rất cao nhưng đòi hỏi phải mở
rộng quy mô phát hành tiền, tổng cầu luôn vượt tổng cung, nền kinh tế luôn ở trạng
thái mất cân đối, lạm phát tăng ở mức ba con số.
Thời kỳ 1989 - 1991 nền kinh tế chuyển hướng mạnh theo cơ chế thị trường,
Nhà nước đã ban hành các chính sách quản lý mới nền kinh tế như: Tự do giá cả,
thả nổi tỷ giá, chính sách lãi suất cao, cắt giảm nhiều khoản chi tiêu ngân
sách....nhờ đó mà nền kinh tế đã có những chuyển biến tích cực, lạm phát phi mã
bị chặn lại. Thời kỳ 1992 - 1995 nền kinh tế về cơ bản thoát khỏi tình trạng khủng
hoảng và đi dần vào thế ổn định, nguyên nhân chủ yếu gây nên lạm phát cao ở
4
nước ta vẫn là sự bành trướng cung ứng tiền tệ qua lớn để đáp ứng nhu cầu chi tiêu
của xã hội nếu không tính đến những nguyên nhân có tính khách quan như: Nền
kinh tế chủ yếu là nông nghiệp vốn yếu kém, lạc hậu, mất cân đối cơ cấu, phụ
thuộc nhiều các yếu tố bên ngoài đặc biệt là nguồn viện trợ của Liên Xô.
Từ năm 1996 nền kinh tế nước ta chuyển sang một thời kỳ mới- công nghiệp
hoá với tốc độ tăng trưởng cao. Vì vậy, kiềm chế được lạm phát ổn định nền kính
tế để duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao vẫn là mục tiêu đặc biệt quan trọng và
công cụ chủ yếu vẫn là thực thi một số chính sách tiền tệ hợp lý như: tăng mức
cung tiền tệ hàng năm với mức thích hợp, xây dựng và sử dụng có hiệu quả hơn
các chính sách tiền tệ, kiên quyết không bù thâm hụt ngân sách bằng cách phát
hành tiền.
Từ năm 1996 đến nay, do nền kinh tế nước ta vẫn còn thấp kém, cơ cấu kinh
tế mất cân đối, đang trong trạng thái chuyển dịch, đầu tư tăng nhanh. Vì vậy có thể
ổn định kinh tế ở một mức nhất định, lạm phát có thể giảm xuống ở mức có thể
chấp nhận được. Và thực tề là xu hướng giảm phát đã xảy ra gây tình trạng thiểu
phát, đây cũng là biển hiện của nền kinh tế trì trệ khủng hoảng. Vậy muốn ổn dịnh
đất nước cả về kinh tế xã hội để đẩn bảo quyền lợi và nghĩa vụ của mối người dân
thì vấn đề tăng trưởng kinh tế và chống lạm phát phải được thực hiện một cách
thống nhất làm thế nào đạt được hiệu quả cao nhất thì đòi hỏi chungs ta phải
nghiên cứu một cách khoa học, vấn đề này để hiểu được thế nào là lạm phát chống
lạm phát làm như thế nào? Cần có những giải pháp gì để khắc phục cả về mặt
ngắn hạn và dài hạn duy trì mức lạm phát ở mức nào cho hợp lý? thiểu phát có gây
ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế hay không?...
5
NỘI DUNG
I-/ CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ LẠM PHÁT
1. Khái niệm:
Lạm phát là một hiện tượng chung của nền kinh tế hàng hoá, là căn bệnh nẩy
sinh khi quy luật lưu thông tiền tệ không được tôn trọng. Lạm phát thường phát
sinh do tình trạng thiếu hụt ngân sách, đặc biệt là do các cuộc chiến tranh, những
biến động lớn về kinh tế khi Nhà nước TBCN khôpng có khả năng bù đắp những
chi phá ngày càng tăng của mình bằng thuế khoá, công trái..... nên phải tăng cường
phát hành tiền giấy, tình hình đó làm cho tiền giấy mất giá hết sức nhanh chóng so
với vàng, hàng hoá và ngoại tệ. Vì vậy vấn đề chống lạm phát vẫn là vấn đề quan
trọng hàng đầu trong chính sách kinh tế vĩ mô của mối quốc gia. Có nhiều nhà kinh
tế ở các quốc gia khác nhau đã đưa ra nhiều lý thuyết để chuẩn đoán và các giải
pháp khắc phục. Vậy lạm phát là gì? Trên quan điểm lý luận của C-Mac Lenin thì
lạm phát là tình trạng tiền giấy tràn đầy các kênh lưu thông tiền tệ, vượt quá các
nhu cầu kinh tế thực tế làm cho tiền tệ mất giá, là phương tiện để phân phối lại thu
nhập quốc dân và của cải xã hội có lợi cho giai cấp thống trị dưới chế độ TBCN
là phương pháp để tăng cường bóc lột lao động biểu hiện lạm phát là giá cả tăng
một cách tự phát, nhất là các giá cả hàng tiêu dùng thông thường. Nội dung lạm
phát là sự liên tục tăng lên của mức giá trung bình theo thời gian. Lạm phát có thể
biểu hiện một cách cụ thể như sau: Lạm phát do khổi lượng tiền thực tế trong lưu
thông tăng nhưng sản xuất và lưu thông hàng hoá không tăng hoặc do khối lượng
tiền thực tế trong lưu thông vẫn giữ nguyên nhưng sản lượng hàng hoá giảm xuống
làm cho tiền dư thừa, gây ra lạm phát. Đây là những nguyên nhân cơ bản gây ra
sự phát triển không bình thường của lưu thông tiền tệ. Sự quá thừa dấu hiệu giá trị
trong lưu thông đã làm cho tiền tệ mất giá so với vàng, so với hàng hoá và ngoại
tệ. Tiền tệ mất giá so với vàng bởi do đặc trưng cơ bản của lưu thông tiền giấy là
có thể chứa một khối lượng đồ sộ tiền giấy đi vào lưu thông làm cho lợng vàng mà
6
một đơn vị tiền giấy làm đại diện giá trị giảm xuống. Tiền tệ mắt giá so với hàng
hoá có nghĩa sức mua của tiền tệ giảm sút đối với tất cả hàng hoá. Bởi vì giá trị của
một đơn vị tiền giấy giảm thì giá trị hàng hoá biểu hiện ở tiền giấy tăng lên. Trong
lạm phát giá cả hàng hoá cũng có thể tăng không cùng tốc độ với nó là do quan hệ
cung cầu và mức độ thiết yếu của thứ hàng hoá đó, còn mất giá so với ngoại tệ
nghĩa là giá trị tiền tệ ở các nước có lạm phát bị hạ thấp so với giá trị tiền tệ ở các
nước khác thể hiện ở sự thay đổi tỷ giá hối đoái. Lạm phát xảy ra luôn gắn liền với
phân phối lại thu nhập quốc dân, nó làm cho giai cấp công nhân bị thiệt hại hơn cả
vì khi tiền giấy bị mất giá, giá cả tiêu dùng tăng nhanh hơn tiền lương danh nghĩa,
nó cũng ảnh hưởng tiêu cực đến cả những người sản xuất nhỏ vì giá cả sản phẩm
của họ tăng lên chậm hơn so với giá cả sản phẩm của các xí nghiệp. Ngoài ra tiền
tiết kiệm của họ cũng bị mất giá, lạm phát còn ảnh hưởng đến hoàn cảnh của
những người có thu nhập ổn định: Viên chức, giáo viên... Theo quan điểm của C-
Mác. Lạm phát được chia thành hai thời kỳ:
Thời kỳ lạm phát tiệm tiền là thời kỳ mà trong đó tốc độ mất giá của tiền giấy
nhỏ hơn tốc dộ tăng tiền giấy, bởi vì một bộ phận tiền giấy phát hành thay tiền đúc
rút ra khỏi lưu thông không phải là tiền thừa. Đồng thời trong thời kỳ đầu lạm phát,
mua bán chịu hàng hoá giảm do nhu cầu vay tiền giảm, khi nhu cầu tiền mặt tăng
lên, giá tiền giấy đã lớn hơn tốc độ tăng tiền giấy trong lưu thông. Xét về mặt lý
luận, nhân dân chưa phát hịên ra lạm phát, vấn đề thực hiện việc tích luỹ tiền tệ do
đó phát hành tiền tăng nhưng giá tiền vẫn chưa tăng.
Thời kỳ lạm phát công khai thì tốc độ mất giá tiền giấy tăng nhanh hơn tốc độ
tăng tiền giấy trong lưu thông. Vì trong lạm phát sản xuất phát triển không đều, có
xí nghiệp mạnh lên và có xí nghiệp phá sản dẫn đến khối lượng sản phẩm cung
ứng trong xã hội giảm, mất cân đối tăng lên giữa khối lượng tiền giấy và khối
lượng hàng hoá trong lưu thông. Khi khối lượng tiền giấy tăng lên với tốc độ đột
biến nó cũng làm cho cán cân thanh toán quốc tế bị biến động. Theo quan điểm của
Mac thì bất cứ một sự lạm phát tiệm tiền nào cũng dẫn đến lạm phát công khai.
Theo quan điểm của kinh tế học hiện đại thì lạm phát xảy ra khi mức chung về giá
7
và chi phí tăng lên, còn giảm phát là khi mức chung về giá và chi phí giảm xuống.
Như vậy lạm phát xẩy ra khi hàng loạt các loại hàng hoá đều tăng giá hoặc cũng có
thể chỉ một hay một nhóm nào đó tăng gây lên sự biến động của mức giá chung.
Mức giá chung trong điều kiện có lạm phát thường mang tính cục bộ đối với từng
hàng hoá, Theo quan điểm của các nhà kinh tế hội Việt Nam cho rằng lạm phát là
một vấn đề không mấy xa lạ đối với nền kinh tế hàng hoá, và hầu hết quảng đại
quần chúng đều có thể chứng kiến hay trải qua thời kỳ lạm phát ở những mức độ
khác nhau. Nhưng hiểu chính xác lạm phát là gì thì không dễ Ngay cả các nhà kinh
tế học cũng có những qquan điển rất khác nhau về lạm phát. Xét về nội dung thì có
thể chia quá trình phát triển của khái niệm lạm phát thành các giai đoạn sau:
Giai đoạn thứ nhất: Từ năm 1890 trở về trước lạm phát được coi là sự phát
hành của nhiều tiền mặt dẫn đến tình trạng giảm giá trị đồng tiền tức là giá cả tăng
lên "lạm phát là sự tràn ngập các luồng lưu thông, những đồng bạc giấy thừa gây ra
sự mất giá của đồng tiền ". Có thể có nhiều định nghĩa khác nhau nhưng tập trung
vào hai điểm cơ bản: Một là phát hành quá nhiều tiền giấy vi phạm quy luật lưu
thông tiền tệ. Hai là thể hiện chủ yếu nhất hoặc hiệu quả trực tiếp nhất của lạm
phát là sự mất giá đồng tiền và cũng là sự tăng lên của giá cả. Xuất xứ của định
nghĩa này từ đâu và có gì đúng sai hoặc không thích hợp?. Trước hết định nghĩa
này xuất phát từ lý thuyết về số lượng tiền cần thiết trong lưu thông, nó được tính
theo công thức sau đây:
8
xp
S =
(1)
V
S: Số tiền cần thiết trong lưu thông
P: Giá trị đơn vị của hàng hoá
X: Lượng hàng hoá
V: Số vòng quay của đồng tiền
xp: Biểu thị tổng giá cả
Vậy số lượng tiền cần thiết trong lưu thông bằng tổng giá cả chia cho số vòng
quay của đồng tiền
Con số vòng quay của đồng tiền (V): Đối với một người, một gia đình hoặc
một xí nghiệp kinh doanh người ta đã đề xuất cách tính. Nhưng trong toàn bộ nền
kinh tế quôc dân thì V là "một con số mơ hồ" do vậy S cũng là "một con số mơ
hồ". Bỏ qua thực tế trên và coi như công thức (1) được hoàn toàn xác định, người
ta dựa vào đó để nêu lên định nghĩa về chỉ số lạm phát (Tỷ lệ lạm phát)
S - S
=
. 100% (2)
S
S: Là lượng tiền đã phát hành
S - S: Là số tiền phát hành quá mức cần thiết và chỉ số lạm phát chính là tỷ lệ
giữa số tiền phát hành quá mức cầu cần thiết so với lượng tiền cần thiết. Bằng toán
học ta cũng có thể chứng minh được rằng, nếu giữ nguyên vòng quay của đồng tiền
(V) thì lượng tiền phát hành tăng lên bao nhiêu phần trăm, chỉ số giá cả tăng lên
bấy nhiêu phần trăm như vậy tỷ lệ lạm phát cũng là tỷ lệ tăng giá.
9
Giai đoạn hai: Từ sau năm 1890 đến những năm trước 1950, lạm phát được
coi là tình trạng cầu lớn hơn cung, dưới góc độ tài chính đó là chi lớn hơn thu thì
lúc này chỉ số lạm phát được tính theo công thức sau:
Chi - Thu
=
. 100%
Thu
Theo quan điểm này, cứ xuất hiện chênh lệch chi lớn hơn thu thì xảy ra lạm
phát, và vì có nhiều hình thức thu chi khác nhau: Thu chi ngân sách, thu chi tiền
mặt, tín dụng nên cũng có nhiều khái niệm khác nhau về lạm phát: Lạm phát ngân
sách, tiền tệ, tín dụng...
Như vậy khái niệm ở giai đoạn này chính là đi vào nguyên nhân trực tiếp nhất
trong khái niệm lạm phát của giai đoạn thứ nhất. Vấn đề này có nguyên nhân lịch
sử của nó, đó là từ lúc phôi thai của chiến tranh thế giới lần thứ nhất cho đến khi
kết thúc chiến tranh thế giới II. Các nước gây chiến tranh cũng như các nước tham
chiến đều tăng chi tiêu lên gấp bội. Nhưng sau chiến tranh đó bị tàn phá nặng nề về
người và của, sản xuất ngừng trệ nguồn thu giảm nghiêm trọng. Cho nên chênh
lệch thu chi trong giai đoạn này ở nhiều nước đã gây lên khủng hoảng về tài chính
và tiền tệ, thâm hụt ngân sách nghiêm trọng. Để bù đắp thâm hụt ngân sách chính
phủ của các nước này chẳng còn cách nào khác là phát hành tiền để bù đắp thiếu
hụt, làm cho lượng tiền giấy ngày càng tăng, gây ra sự mất giá của đồng tiền và
lạm phát xảy ra.
Với quan niệm lạm phát thực chất là chênh lệch thu chi thì biện pháp chống
lạm phát chủ yếu ở đây là tăng thu giảm chi làm cân bằng ngân sách. Tăng thu chủ
yếu nhờ chính sách thuế, chính sách khuyến khích sản xuất, chính sách đầu tư để
thu hút vốn vay, phát hành công trái hoặc xin viện trợ... Còn giảm chi chủ yếu nhờ
chính sách tiêu dùng xã hội, chính sách tiết kiệm bắt buộc, giảm quân đội, giảm
biên chế hành chính, tinh giảm bộ máy nhà nước và hạn chế đầu tư...
Giai đoạn 3: Từ những năm 1950 đến năm 1972
10
Trong giai đoạn này lạm phát được đồng nhất với sự tăng giá. Cho đến nay
một số tạp chí trên thế giới vẫn sử dụng khái niệm này. Như chúng ta đã biết năm
1986 chỉ số lạm phát ở Việt Nam là 700% điều đó có nghĩa là chỉ số giả cả cuối
năm 1986 gấp 7 lần chỉ số giá cả đầu năm 1986. Như chúng ta đã biết vấn đề giá
cả là một vấn đề rất phức tạp, nó luôn luôn biến động. Tất cả các vấn đề phức tạp
về kinh tế, chính trị, quân sự, xã hội, đối nội, đối ngoại đều liên quan đến vấn đề
giá. Như vậy việc tăng giá không chỉ do nguyên nhân phát hành tiền quá mức, do
chênh lệch cung cầu hay bội chi mà nó còn mang nhiều nguyên nhân khác mang ý
nghĩa phi tài chính, phi tiền tế như sự ảnh hưởng của tình hình chính trị-xã hội hay
do sự tác động của các công ty độc quyền. Khi chúng nâng cao giá cả sản phẩm
của mình.
Như vậy tiến bộ của giai đoạn thứ ba là nêu nên được vấn đề mấu chốt nhất
của vấn đề lạm phát là vấn đề tăng giá mà trước đó người ta chỉ coi nó như một
hiện tượng hay một hậu quả của lạm phát.
Giai đoạn thứ tư: Từ năm 1972 đến nay. Đây là giai đoạn có nhiều sự kiện
đáng ghi nhớ
Khi tiền vàng bị rút khỏi lưu thông, chấm dứt việc đổi tiền tín dụng lấy vàng
thì lạm phát có tính chất phổ biến và kinh niên, nó thường xảy ra cùng với sự suy
thoái của sản xuất do khủng hoảng gây ra, với nạn thất nghiệp tăng lên là một hiện
tượng mới của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa từ những năm 60 và nó được gọi là
lạm phát suy thoái. Những xu hướng này đặc biệt thể hiện rõ trong điều kiện của
cuộc khủng hoảng sâu sắc những năm 74-75, khi mà khối lượng sản xuất giảm sút
và nạn thất nghiệp tăng lên mạnh mẽ đã kéo theo tình trạng giá cả và lạm phát tăng
lên không gì ngăn cản nổi. Lo sợ những hậu quả phá hoại về kinh tế-xã hội của lạm
phát, nhà nước đế quốc chủ nghĩa đang cố gắng điều chỉnh nó. Tuy nhiên tính
không ổn định thường xuyên của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, kể cả trong lĩnh vực
tài chính tín dụng của nó, cuộc khủng hoảng của hệ thống tiền tệ đang làm cho
lạm phát trở thành một hiện tượng kinh niên của thế giới tư bản chủ nghĩa và các
nước xã hội chủ nghĩa hiện nay. Và suy cho cùng, nó phá vỡ những cơ sở của chủ
11
nghĩa tư bản và làm cho các mâu thuẫn đối kháng về kinh tế -xã hội ngày càng trở
nên gay gắt.
Tóm lại, ta có thể đi đến khái niệm lạm phát như sau:Lạm phát là hiện tượng
tiền giấy tràn đầy các kênh lưu thông tiền tệ, vượt quá các nhu cầu kinh tế thực tế
làm cho tiền bị mất giá so với toàn bộ sản phẩm hàng hoá, vàng và ngoại tệ và thể
hiện là sự tăng lên liên tục của mức giá trung bình theo thời gian. mức giá trung
bình thường lấy mức giá cả của những mặt hàng tiêu dùng làm cơ sở và muốn
được lạm phát phải tính được chỉ số giá tiêu dùng. Công thức tính có thể được viết
như sau:
Ip=ip. d
Trong đó: Ip chỉ số giá tiêu dùng của cả giỏ hàng hoá
ip: Chỉ số giá cả của từng loại hàng hoá trong giỏ hàng hoá đó.
d: Tỷ trọng mức tiêu dùng trong từng loại hàng hoá nhóm hàng hoá trong giỏ.
Chỉ số giá tiêu dùng phản ánh cơ cấu tiêu dùng của xã hội. Khác với chỉ số
gia tiêu dùng, chỉ số giá bán buôn(giá cả sản xuất) phản ánh sự biến động của giá
cả đầu vào, thực chất là biến động giá cả chi phí sản xuất. Ở Việt Nam hiện nay,
chỉ số được dùng để biểu hiện lạm phát là chỉ số giá tiêu dùng(tính theo hàng năm,
quý, tháng).
2. Tỷ lệ lạm phát.
Tỷ lệ lạm phát là thước đo chủ yếu của lạm phát trong một thời kỳ. Quy mô
và sự biến động của nó phản ánh xu hướng và quy mô của lạm phát.
Tỉ lệ lạm phát được tính theo công thức:
gp=(Ip/Ip-1-1). 100%
Trong đó:
gp: tỷ lệ lạm phát(%)
Ip: chỉ số giá cả của thời kỳ nghiên cứu
Ip-1: chỉ số giá cả thời kỳ trước đó.
12
Khi lạm phát xảy ra thì đồng nghĩa với việc tăng lên của chỉ số giá cả, nên
mức cầu tiền danh nghĩa cũng tăng theo để đảm bảo thu mua khối lượng hàng hoá
cần thiết đã dự định. Như vậy thực chất của mức cầu tiền là cầu về cán cân tiền tệ
thực tế
Nhưng trong thực tế thì lượng tiền danh nghĩa tăng nhanh hơn cả do vậy tỉ lệ
lạm phát cũng được tính bằng mức tăng lượng cung tiền danh nghĩa trừ đi mức
tăng nhu cầu tiền thực tế.
Theo lý thuyết định lượng đơn giản nói rằng:Do thu nhập thực tế và lãi suất
thường chỉ thay đổi nhỏ một vài phần trăm mỗi năm nên nhu cầu thực tế thường
cũng chỉ thay đổi một cách chậm chạp. Khi lượng tiền danh nghĩa tăng nhanh, về
cơ bản nó kéo theo sự tăng nhanh của giá cả để đảm bảo mức cung tiền thực tế chỉ
thay đổi một cách chậm chạp tương ứng với những thay đổi về nhu cầu tiền tệ. Lập
luận cơ bản của lý thuyết định lượng về tiền tệ là ở chỗ các biến số thực tế thường
thay đổi một cách chậm chạp do đó những thay đổi rất lớn trong một biến danh
nghĩa(lượng tiền danh nghĩa)phải kéo theo những thay đổi rất lớn trong các đại
lượng danh nghĩa khác(giá cả và tiền lương)để duy trì lượng cung tiền thực tế tại
những giá trị cân bằng của chúng.
3. Quy mô lạm phát.
Trong thực tế tư bản chủ nghĩa, người ta thường phân biệt lạm phát lan dần
biểu hiện ở sự tăng giá cả liên tục và thường xuyên và lạm phát lan nhanh trong đó
giá cả tăng lên vùn vụt và nhảy vọt. Tùy theo quá trình lạm phát bao trùm khu vực
này hay khu vực khác của thế giới tư bản chủ nghĩa mà lạm phát được chia thành
lạm phát thế giới bao trùm một nhóm nước và lạm phát cục bộ chỉ phát triển trong
phạm vi một nước. Và tuỳ theo mức độ của tỉ lệ lạm phát mà người ta chia lạm
phát thành ba loại sau:lạm phát vừa phải, lạm phát phi mã và siêu lạm phát.
a. Lạm phát vừa phải.
Xảy ra khi giá cả tăng lên chậm ở mức một con số hay ở mức dưới 10%/năm.
Hiện ở phần lớn các nước tư bản chủ nghĩa đang có lạm phát vừa phải. Trong điều
13
kiện lạm phát vừa phải giá cả tăng chậm thường xấp xỉ bằng mức tăng tiền lương
hoặc cao hơn một chút. Do vậy đồng tiền không bị mất giá hoặc mất giá không
lớn. Lạm phát ở mức độ này không gây ra những tác động đáng kể đối với nền
kinh tế.
b. Lạm phát phi mã
Xảy ra khi giá cả tăng tương đối nhanh với tỷ lệ 2 hoặc 3 con số trong một
năm. Khi loại lạm phát này hình thành một cách vững chắc sẽ gây ra những biến
dạng kinh tế nghiêm trọng; khi các hợp đồng kinh tế được ký kết theo các chỉ số
giá hoặc theo một đồng ngoại tệ mạnh nào đó, nếu lạm phát xảy ra với sự tăng lên
rất nhanh của chỉ số giá cả làm cho đồng tiền mất giá so với các chỉ số giá hoặc
đồng ngoại tệ đó sẽ làm cho các chủ doanh nghiệp, các chủ hợp đồng... có thể
phất lên và trái lại cũng có các chủ doanh nghiệp, các ngành nghề suy sụp thậm
chí phải chuyển hướng sản xuất kinh doanh.
c. Siêu lạm phát
Siêu lạm phát xảy ra khi lạm phát đột ngột tăng lên với tốc độ cao vượt xa
lạm phát phi mã, ở mức trên 300%. Lạm phát ở Đức năm 1922-1923 là hình ảnh
siêu lạm phát điển hình trong lịch sử siêu lạm phát thế giới giá cả tăng từ một đến
mười triệu lần. Siêu lạm phát xảy ra thường gây ra những thiệt hại nghiêm trọng và
sâu sắc. Nó phá vỡ quy luật lưu thông tiền tệ, lưu thông hàng hoá gặp nhiều khó
khăn, xã hội đầy những tiêu cực, nền kinh tế trì trệ không thể phát triển được.
Ở Việt Nam điển hình điển hình của loại siêu lạm phát là thời kỳ 1986-1988
lạm phát đã ở mức 3 con số và ở mức cao. Đây là giai đoạn đặc trưng của nền kinh
tế tập trung quan liêu bao cấp.
II. THỰC TRẠNG LẠM PHÁT Ở NƯỚC TA HIỆN NAY.
Từ cuối những năm 80, Việt Nam đã trải qua thời kỳ khủng hoảng kinh tế
nghiêm trọng, sản xuất sút kém, giá cả tăng với tốc độ phi mã. Cao điểm nhất là
thời kỳ 1986-1988 nền kinh tế vẫn hoạt động theo nguyên tắc kế hoạch hoá tập
trung, hàng hoá sản xuất khan hiếm về số lượng, sút kém về số lượng nhưng nhu
14
cầu lại rất cao, đòi hỏi phải mở rộng quy mô phát hành tiền nên tổng cầu luôn tăng
vượt tổng cung, nên kinh tế luôn ở trạng thái mất cân bằng, lạmphát luôn ở mức 3
con số(năm1986 774% năm 1988 giảm xuống 308 %). Trong tình hình bất ổn định
như vậy, lạm phát càng tăng cao thì lòng tin của người dân vào đồng tiền càng
giảm sút. Xuất phát từ yêu cầu cấp bách phải ổn định nền kinh tế chính phủ đã đưa
ra hai thay đổi lớn trong lĩng vực tiền tệ đó là đưa tỷ giá hối đoái lên ngang giá thị
trường và thi hành chế độ lãi suất thực dương nhằm mục tiêu đưa lại giá trị thực
cho đồng tiền Việt nam. Và kết quả là đã góp phần đẩy lùi lạm phát và khủng
hoảng, khôi phục lòng tin trong nhân dân đối với đồng tiền. Từ đó các quan hệ thị
trường đã được hình thành và làm cơ sở để từng bước mở rộng quan hệ hành hoá
trên phạm vi quốc tế.
Đến giai đoạn 1989-1991, nền kinh tế chuyển hướng mạnh sang cơ chế thị
trường , các chính sách đổi mới quản lý như thực hiện tự do hoá giá cả, thả nổi tỷ
giá chính sách lãi suất, cắt giảm mạnh nhiều khoản chi tiêu ngân sách....Đặc biệt là
cải cách chính sách thuế, áp dụng chính sách thuế thống nhất đối với tất cả các
thành phần kinh tế từ năm 1990 đã có tác dụng tích cực trong việc mở rộng và tập
trung kịp thời các nguồn thu cho ngân sách nhà nước, từ đó đã cắt nhanh được cơn
sốt lạm phát cao (từ 308% năm 1988 xuống 68% năm 1991) và số thu trong năm
1991 so với 1990 là 32, 4 %.
Thời kỳ 1992-1995, nền kinh tế về cơ bản thoát khỏi tình trạng khủng hoảng
và đi dần vào thế ổn định. Chỉ số giá cả hành hoá và dịch vụ dao động xung quanh
mức 12%/năm nhưng ta vẫn chưa có khả năng kiểm soát lạm phát theo mong
muốn. Năm 1992, lạm phát ở mức 17, 5% đến năm 1993 thì giảm xuống còn 5,3%
(trong khi mức dự kiến là từ 10-13%). Nguyên nhân của sự giảm phát này là do
giữa năm 1993 hàng Trung Quốc tràn sang việt nam với giá cả rất rẻ so với hàng
hoá nội địa và cũng do nền kinh tế nước ta đang trong xu hướng giảm phát. Đến
năm 1994, trận lũ lụt ở ĐBSCL xảy ra gây tổn thất nặng nề đối với nền nông
nghiệp nước ta đặc biệt là nguồn lúa, do vậy mà giá cả lương thực đã tăng vọt lên
15
đồng thời giá thực phẩm cũng tăng cao, đẩy lạm phát tăng lên 14, 4%, và ảnh
hưởng cả sang năm 1995.
Đến năm 1996, nền kinh tế Việt Nam chuyển sang một thời kì mới-công
nghiệp hoá và dự kiến có tốc độ tăng trưởng cao. Vì vậy, kiềm chế lạm phát, ổn
định nền kinh tế để duy trì tốc độ tăng trưởng cao là mục tiêu đặc biệt coi trọng.
Công cụ chủ yếu để kiềm chế lạm phát vẫn là thực thi một chính sách tiền tệ hợp
lí: tăng lượng cung ứng tiền tệ hàng năm với mức thích hợp, xây dựng và sử dụng
ngày càng có hiệu quả hơn các công cụ chính sách tiền tệ, kiên quyết không bù
đắp thâm hụt ngân sách bằng cách phát hành tiền. Với các chính sách trên tỉ lệ lạm
phát đã giảm xuống một cách đáng kể. Năm 1996, chỉ số lạm phát là 4, 5% được
coi là mức thấp nhất kể từ 1987. Trong năm đã xuất hiện dấu hiện giảm phát (từ
tháng 5 dến tháng 8 chỉ số giá tiêu dùng đều mang dấu âm)... cụ thể là theo số liệu
của tổng cục thống kê, chỉ số giá tiêu dùng tháng 4 giảm 0, 6%, so với tháng
3/1997 đây là tháng thứ hai chỉ số giá tiêu dùng liên tục giảm. Trong đó nhóm
hàng lương thực giảm mạnh nhất tới 2, 8%, giá thực phẩm giảm 1%, giá các nhóm
hàng phi lương thực - lương thực tương đối ổn định. Giá vàng tiếp tục giảm 1, 1%,
giá đô la lại taưng 1% so với tháng 3/1997.
Nhìn chung từ tháng 4 năm 1997 chỉ số giá tiêu dùng tăng 1, 6% so với tháng
4/1996 bình quân tăng 0, 13%/tháng. Đây là mức tăng thấp nhất so với 4 tháng đầu
năm 1997. Và so với cả khoảng thời gian 12 tháng liên tục cùng kì của nhiều năm
trước.
Với số liệu thực tế như vậy, một số nhà phân tích kinh tế đã đưa ra một vài
nhận xét sau:
+Thể hiện sức mua xã hội, trong đó 80% là nông thôn giảm sút, quan hệ tỉ giá
cánh kéo doãng ra bất lợi cho nông thôn, hàng hoá ứ đọng, thị trường kém sôi
động, nhiều lĩnh vự sản xuất kinh doanh và hoạt động văn hoá - du lịch trầm hẳn
xuống. Sang năm 1997 hiện tượng giảm phát lại xuất hiện ở 6 tháng đầu năm.
16
+ Xu hướng giảm phát này diễn ra từ tháng 3/1997 sớm hơn năm 1996 (vào
tháng 5) và có nhiều k/n sẽ kéo dài trong những tháng tiếp theo. Do vậy thợc trạng
giảm phát trên cần được đánh giá, phân tích một cách thận trọng nhằm hạn chế
những tác động ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh.
Các nhà kinh tế cũng cho rằng, với chỉ số giá tiêu dùng tăng như trên, thông
thường chỉ thích ứng với các nước có nền kinh tế phát triển. Còn đối với các nước
chưa phát triển, nhất là đối với nước ta đang trong giai đoạn đầu tạo lập và phát
triển nền kinh tế thị trường thì đó chưa hoàn toàn là nhân tố tích cực và phù hợp.
Vậy nguyên nhân chính của tình hình trên là như thế nào?
Thứ nhất, trong những tháng đầu năm, nhiều mặt hàng nông sản bước vào
thời kỳ thu hoạch chính vụ, lưu lượng trên thị trường dồi dào, song tiến độ mua
vào mua vào hết sức chậm chạp đã làm cho giá các loại nông sản giảm khá nhanh
và liên tục, chính nguyên nhân này đã góp phần làm cho sức mua của dân cư giảm
rõ rệt, nhịp độ tăng trưởng diễn ra một cách trầm lặng. Hàng hoá nông sản chủ yếu
ở đây là lúa, gạo và hạt điều thô vẫn nằm trong tình trạng khó tiêu thụ. Mà khó
khăn chủ yếu là sự thiếu vốn cũng như đầu ra bị hạn chế của các cơ sở sản xuất và
chế biến, xuất khẩu. Bởi trong khi chỉ số giá tiêu dùng trong 12 tháng liên tục (Từ
tháng 4/1996 đến 4/1997) chỉ tăng 1, 6%, 4 tháng đầu năm tăng 1, 5%. Thế mà lãi
suất vốn vay ngân hàng vẫn duy trì ở mức trên 1%/tháng. Như vậy liệu họ vay vốn
làm ăn có mang lại hiệu quả và đảm bảo khả năng thanh toán được hay không? Vì
vậy hiện nay vẫn tồn tại một nghịch lí là ngân hàng thừa vốn với khối lượng lớn
mà các doanh nghiệp lại thiếu vốn trầm trọng.
Thứ 2 là việc kiểm soát nhập khẩu còn thiếu chặt chẽ, kiên quyết nên đã dẫn
đến tình trạng hàng ngoại tràn ngập, cạnh tranh gay gắt với hàng sản xuất trong
nước, làm cho các doanh nghiệp vốn khó khăn lại càng khó khăn hơn. Mặc dù
ngay từ dầu năm 1997, Thủ tướng Chính phủ đã có ý kiến chỉ đạo về danh mục
mặt hàng xuất khẩu và công tác điều hành nhập khẩu quy định rõ các danh mục và
số lượng hàng hoá nhập khẩu. Song trên thực tế hàng ngoại vãn chiếm một thị
phần đáng kể như:xi măng, phân bón, giấy, sắt thép.....
17
Thứ ba là những tháng đầu năm, giá cả thị trường thế giới cũng có những
biến động bất lợi cho ta. Ngoài giá gạo thì giá cà phê cũng là một thiệt thòi lớn cho
nông dân. Từ cuối tháng, giá cà phê trên thị trường thế giới tăng mạnh, giá cà phê
Robustal xuất khẩu của Việt nam đạt trên 1400USD/tấn. Nhưng hầu hết sản lượng
cà phê thu hoạch năm 1996/1997 đã được tiêu thụ khi giá cà phê trong nước còn
thấp. Số còn lại không nhiều, đến cuối tháng 3 giá cà phê trong nước giảm liên tục
700 - 1000 đồng/kg.
Mặt hàng cao su cũng không kém khó khăn, mức giá xuất khẩu giảm xuống
nhiều, lượng cao su tồn kho ở các cửa khẩu biên giới phía Bắc lên đến 10000tấn.
Ngoài ra những nguyên nhân chính ở trên, ta cũng pphải thừa nhận một thực tế là
hàng hoá sản xuất trong nước chất lượng chưa cao, mẫu mã kiểu dáng chưa đáp
ứng thị hiếu người tiêu dùng và giá bán chưa phù hợp với túi tiền ngươì tiêu dùng
nhất là ở mảng hàng hoá tiêu dùng và dịch vụ.
Trước tình hình đó, chính phủ đã đề ra nhiều biện ppháp chỉ đạo mạnh mẽ để
kích cầu như: Nới lỏng cơ chế liên ngân hàng; cung ứng tiền mặt càn thiết để tăng
dữ trữ ngoại tệ của Nhà nước để hỗ trợ vốn cho các công ty lương thực mua hết
lúa, hàng hoá của nông dân không thấp dưới giá sàn; điều chỉnh hạ lãi suất cho vay
và đơn giản hoá các thủ tục cho vay; tạo điều kiện dễ dàng cho các doanh nghiệp,
các hộ sản xuất tiếp cận vay vốn ngân hàng.
Những biện pháp trên đã đem lại hiệu quả thiết thực trong 6 Tháng cuối năm
1997 không còn hiện tượng giảm phát; chỉ số giá tăng 2, 5%. Trong đó đó lương
thực không còn mang dấu âm (như những tháng đầu năm). Tuy nhiên tỷ lệ lạm
phát vvẫn ở mức 3, 6% (thấp hơn năm 1996 - 4, 5%) đây là mức thấp nhất trong 10
năm đổi mới. Nếu kiềm chế lạm phát ở mức Quốc hội cho phép 10% là rất tốt
nhưng mức lạm phát quá thấp sẽ đẩy nền kinh tế vào tình trạng giảm phát thì đó là
kết quả không hay. Về những phương diện đối ngoại tỷ giá giữa VND/USD nửa
cuối năm 1997 giảm nhiều so với tỷ giá chính thức +10%.
18
Tóm lại mức lạm phát năm 1997 thực hiện thấp hơn nhiều so với mục tiêu chỉ
đạo (3, 6% /10%) trong khi đó mức độ mất giá của VND/USD lớn hơn nhiều so
với mức chỉ đạo (13. 950đ / 11. 175đ) nói lên việc điều hành chính sách tiền tệ
năm 1997 tuy có nhiều cố gắng song chưa đạt yêu cầu của Nhà nước. Đến 6 tháng
đầu năm 1998 chỉ số hàng hoá - dịch vụ tăng 6%. Sáu tháng năm 1999 tăng 1, 6%
so với tháng 12 năm trước. Nhìn chung trong 2 năm trở lại đây thị trường kém sôi
động, giá không có đột biến nhưng vận động ở mức thấp, tuy có tác dụng tốt là cải
góp phận cải thiện đời sống nhưng lại làm cho sản xuất lưu thông gặp nhiều khó
khăn cụ thể là nông sản tiêu thụ khó khăn, công nghiệp thì thị trường và sức mua
bị thu hẹp, nhiều sản phẩm sản xuất cầm chừng. Sáu tháng đầu năm 1999 giá cả
vận động chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố kiềm chế tăng giá nhưng cũng có
những nhân tố đẩy giá thị trường tăng.
Để nhìn nhận một cách tổng quát nền kinh tế ta từ năm 1997 đến nay ta có
bảng thống kê của tổng cục Thống kê về chỉ số giá như sau:
Năm
1996
1997
1998
1999
6-7%
Chỉ số giá cả
4, 5%
3, 6%
9, 2%
(Dự kiến)
2, 9
Quý I
Quý II
Quý II
Quý V
4, 3
-0, 1
-0, 4
0, 7
2, 1
-0, 8
0, 9
1, 4
2, 9
3, 1%
0, 6
2, 6
Số liệu trên đây đã cho ta thấy nền kinh tế nước ta đang trong tình trạng giảm
phát mạnh. Trong đó 9 tháng đầu năm 99 chỉ số lạm phát chỉ còn 0, 2% so với cuối
năm 1998, 7 tháng liền kể từ tháng 3 đến tháng 9 năm 1999 nền kinh tế liên tục bị
thiểu phát giá hàng hoá giảm liên tục, hàng hoá tồn kho của các doanh nghiệp ở
mức cao hơn chưa từng thấy như: xi măng, than đá, thép xây dựng, đường kính,
mía...
19
Như vậy thiểu phát là gì? đó là một hiện tượng kinh tế xảy ra khi mức cung
tiền tệ nhỏ hơn mức cầu tiền tệ làm cho đồng tiền lên giá và từ đó làm cho chỉ số
giá cả chung giảm xuống (chỉ số giá cả âm). Theo lí luận của các nhà kinh tế thì
thiểu phát còn nguy hiểm hơn lạm phát bởi nó kìm hãm sự tăng trưởng kinh tế, gây
tình trạng khủng hoảng thừa. Vì vậy trong khi lạm phát có chiều hướng lắng xuống
thì nguy cơ thiểu phát lại dâng lên, điều này đòi hỏi Chính Phủ phải có những biện
pháp thiết thực dể có thể hạn chế nó ở mức thích hợp nhất.
Sau hơn 10 năm đổi mới mà nền kinh tế nước ta đã trải qua 3 tình thế, lạm phát
phi mã; lạm phát hai chữ số với cường độ thấp và thiểu phát 7 tháng liền của đầu năm
1999. Đây là một hiện tượng kinh tế và xã hội không bình thường ở nước ta.
III. NGUYÊN NHÂN GÂY RA LẠM PHÁT VÀ THIỂU PHÁT.
1. Nguyên nhân gây ra lạm phát.
Nguyên nhân khách quan ở đây là do nền kinh tế nước ta chủ yếu là nông
nghiệp vốn yếu kém, lạc hậu, lại gánh chịu hậu quả nặng nề của hai cuộc chiến
tranh lớn: chống Pháp và chống Mỹ cho nên nhu cầu chi tiêu lớn trong khi nguồn
thu ngân sách lại có hạn. Và vì vậy mà sự bành trướng cung ứng tiền tệ quá lớn
(bằng cách in tiền) để đáp ứng nhu cầu chi tiêu xã hội đã gây nên tình trạng lạm
phát.
Nguyên nhân chủ quan do cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư tăng không hợp lý
làm cho sản xuất tăng chậm, thu nhập quốc dân sản xuất chỉ đảm bảo 80-90% quỹ
tiêu dùng xã hội. Trong khi lại phụ thuộc nhiều vài nước ngoài đặc biệt là nguồn
viện trợ của Liên Xô đã giảm đáng kể.
Mặt khác, bộ máy hành chính quá cồng kềnh, hoạt động kém hiệu quả. Vì vậy
mà nền kinh tế kém phát triển, luôn trong tình trạng mất cân đối, thâm hụt ngân
sách cao. Do đó phải bù ngân sách bằng cách phát hành tiền quá mức cho phép gây
nên tình trạng lạm phát lên tới mức 2-3 con số.
Chính sách đổi tiền và tăng giá là một chính sách phá giá đồng tiền. Từ những
năm 80 đến những năm gần đây, Nhà nước đã 3 lần điều chỉnh giá với mức quá
20
lớn, không đồng bộ. Sự điều chỉnh đã không mang lại hiệu quả lại còn gây tình
trạng giá cả tăng vọt và buộc phải chấp nhận cơ chế trượt giá trong việc thu mua
nông sản, thực phẩm và bù giá vào lương. Thời kỳ này nhiều ngành, nhiều địa
phương đã tự điều chỉnh giá để kiềm chế sự chênh lệch giá. Tình hình này đã gây
ách tắc sản xuất, thị trường rối ren và làm tăng bội chi ngân sách.
Việc buông lỏng quản lí ngoại thương, thị trường ngoại hối cũng gây tác hại
lớn cho ngân sách và lưu thông tiền tệ. Trong lĩnh vực xuất khẩu đã phát sinh hiện
tượng tranh mua, tranh bán hay tuỳ tiện tăng giá hay dìm giá của một số địa
phương.
Nhìn chung, nền kinh tế Việt Nam vốn là nền kinh tế đi từ chế độ công hữu
tràn lan sang nền kinh tế tập chung quan liêu bao cấp, mệnh lệnh và khép kín. Cho
nên nó đã làm cho Việt Nam có một nền kinh tế kém phát triển. Chi phí sản xuất
tăng lên, tách rời với nhu cầu và cô lập với thị trương thế giới. Do vậy không tạo
được môi trường sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp các công ty...
Mặt khác nền kinh tế vốn đã yếu kém chậm phát triển về mọi mặt, hiệu quả
đầu tư không cao, chưa có chọn lọc. Quá ưu tiên phát triển công nghiệp nặng trong
khi chưa chuẩn bị đầy đủ về cơ sở vật chất cho nó. Vì vậy làm nền kinh tế mất cân
đối, chưa khai thác hết tiềm năng của đất nước, nếu có lại sử dụng kém hiệu quả ;
chưa huy động được sức mạnh của các thành phần kinh tế trong nền kinh tế quốc
dân. Và đặc biệt là do sự chủ quan duy ý chí, giáo điều dập khuôn của các cấp lãnh
đạo Đảng và Nhà nước trong những năm qua chưa biết đưa lí luận để áp dụng vào
thực tiễn đất nước
2. Nguyên nhân gây ra thiểu phát lạm phát
Những tưởng tránh được cơn bão lạm phát những năm cuối thập kỷ 90 đất
nước ta sẽ đi vào sự phát triển phồn vinh thịnh vượng, thực tế kinh tế những năm
qua có dấu hiệu đáng mừng tăng trưởng qua các năm luôn phát triển.
Năm 92: 8, 6%. Năm 93: 8, 1%. Năm 94: 8, 8% Năm 95: 9, 34%.
21
Kỳ họp quốc hội khoá VIII Đảng ta đã xác định mục tiêu tăng trưởng kinh tế
từ nay đến năm 2000 là 9-10%. Nếu cứ đà tốc độ phát triển như trên thì mục tiêu
trên sẽ chỉ là nhứng con số bình thường có thể thực hiện được, song sự thực lại trở
lên phũ phàng hơn. Nền kinh tế nước ta cứ từ tụt dốc, đất nước không còn phải đối
mặt với cơn bão lạm phát nữa, mà lại gặp phải những vấn đề còn nguy hiểm hơn
lạm phát đó là thiểu phát, kẻ thù số một của sự phát triển kinh tế. Theo số liệu
thống kê năm 99 này mức lạm phát chỉ có 0, 2% nền kinh tế trở lên trì trệ
Vậy đâu là nguyên nhân đưa đến thiểu phát: Theo các nhà nghiên cứu kinh tế
nguyên nhân của thiểu phát rất nhiều. Song tổng kết lại thì chỉ có một vài nguyên
nhân chủ yếu sau:
- Thứ nhất: Trong những tháng qua sức mua của xã hội rất thấp tổng vốn đầu
tư dể phát triển kinh tế xã hội chỉ đạt 37, 5% kế hoạch năm. Trong đó vấn đầu tư
của ngân sách Nhà nước là 41% vốn tín dụng đạt 40% cấp phát vốn cho dầu tư
phát triển 38, 1%. Tổng phương tiện thanh toán tăng 7, 5% so với tháng 12 năm
98, nhưng nguồn vốn huy động tăng 8, 9%
- Thứ hai: ảnh hưởng của cơn bão tài chính tiền tệ trong khu vực Đông Nam
á và các nước trên thế giới đã ảnh hưởng rất nhiều đến nền kinh tế nước ta. Cuộc
khủng hoảng đã làm tỉ giá của các đồng tiền các nước trong khu vực so với USD
giảm xuống (Đồng tiền của họ mất giá ) làn cho tỷ giá đồng tiền nước bạn so với
đồng tiền nước ta cũng giảm mạnh sự sút giảm này dẫn đến hàng hoá của nước bạn
trở lên rất rẻ. Một nơi có quá hàng cao, một nơi có quá hàng thấp tất yếu sẽ dẫn
đến hàng hoá nước bạn thâm nhậm vào thị trường nước ta. Chính vì vậy các mặt
hàng như dầu thô hàng may mặc, gạo, cà fê, cao su..Thời gian qua đã giảm liên tục
ảnh hưởng trực tiếp đến giá cả thị trường trong nước
- Thứ ba: Tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm lại nhiều chỉ tiêu đạt mức tăng
trưởng thấp hơn so với kì năm trước, dựng cơ bản triển khai chậm, khối lượng xây
dựng cơ bản thực hiện ước bằng 305 kế hoạch năm. Vốn đầu tư nước ngoài ước
bằng 63% so với cùng kỳ năm trước, chi ngân sách Nhà nước tính đến 15\5 bằng
22
31, 3% dự toán năm ; tổng phương tiện thanh toán trong năm tháng tuy có tăng
hơn cùng kỳ năm trước nhưng chỉ bằng 407 kế hoạch cả năm. Tỷ lệ thất nghiệp
còn lớn (Hà Nội 9%, Hải Phòng 8, 3%, Thành Phố Hồ Chí Minh 75, Đà Nắng 6,
3%). Tình hình trên đã tác động làm cho sức mua không tăng, làm giảm áp lực
tăng giá thị trường xã hội
- Thứ tư: Thị trường trong nước trầm lặng, hàng hoá tiêu thụ khó khăn như
lúa gạo. Tính đến hết tháng 5\1999 đường của các nhà máy sản xuất còn tồn kho
lên tới 255. 000 tấn, gấp ba lần tồn kho cùng kỳ, than còn tồn kho trên 2 triệu tấn,
xi măng trên 21 vạn tấn... Thị trường thế giới kém sôi động, làm cho thị trường
xuất khẩu lương thực, cao su, hàng may mặc gặp khó khăn, kim ngạch xuất khẩu
giảm, giá xuất khẩu một số mặt hàng có lợi thế đều giảm hơn năm 1998, gạo
31USD / tấn, giá cao su bằng 83, 7% cùng kỳ. Giá thế giới giảm, tác động làm cho
giá thị trường nội địa giảm sút. Mặt khác do nhập lậu một số mặt hàng như đường,
trứng gia cầm với số lượng lớn từ Trung Quốc và Thái Lan đã gây khó khăn cho
các ngành sản xuất trong nước đặc biệt là các hộ gia đình, các doanh ngiệp chăn
nuôi sản xuất trứng, ảnh hưởng đến người trồng mùa
- Thứ năm:Trước đây các nhà kinh tế thế giới đã tổng kết về lãi suất ngân
hàng với nội dung như sau: ứng với nền kinh tế khủng hoảng thiếu, lạm phát phi
mã hoặc siêu lạm phát ; lãi suất ngân hàng hơi cao. ứng với nền kinh tế năng động
lãi suất ngân hàng thấp ; Đối với nền kinh tế trì trệ, khủng hoảng thừa và thiếu
phát. Nhờ vậy có thể nói nguyên nhân gây tình trạng thiếu phát là do sự tác động
của lãi suất ngân hàng. Vậy do đâu mà lãi suất giảm?
Xu hướng giảm phát kéo dài từ năm 1996 đến 9 tháng đầu năm 1999, làm cho
chỉ số lạm phát chỉ còn 0, 2% so với cuối năm 1998, 7 tháng liền kể từ tháng 3 đến
tháng 9 năm 1999 nền kinh tế liên tục bị thiếu phát. Giá cả hàng hoá giảm liên tục,
hàng hoá của các doanh nghiệp tồn kho ở mức cao chưa từng thấy. Trước tình hình
kinh tế như vậy nhiều doanh nghiệp không vay vốn ngân hàng thương mại, bởi có
vốn cũng không thể đẩy mạnh sản xuất để tạo thu nhập cho doanh nghiệp và giải
quyết việc làm cho người lao động. Nhiều ngân hàng thương mại nhất là NHTM
23
quốc doanh nhận tiền gửi của nhân dân và doanh nghiệp vẫn tăng lên nhưng cho
vay không hết các ngân hàng thương mại quốc doanh đầu tư hàng tỷ đồng vào phát
hành trái phiếu kho bạc Nhà nước thời hạn một năm, và công trái xây dựng tổ quốc
thời hạn 5 năm mặc dù lãi suất thấp. Theo dự báo năm tài chính này, một số ngân
hàng thương mại sẽ bị lỗ nhất là NHTM cổ phần
Trước tình hình đó, các ngân hàng buộc phải hạ lãi suất cho vay của mình để
tiêu thụ vốn. Việc làm này đã diễn ra tại các NHTM trước khi thống đốc NHNN
công bố hạ lãi suất cho vay theo phanr ứng dây truyền, các ngân hàng thương mại
đồng loạt hạ lãi suất tiền gửi để chống lỗ với các mức độ khác nhau. Các ngân
hàng thương mại quốc doanh hạ lãi suất huy động vốn nhanh hơn các ngân hàng
thương mại cổ phần. Đến đầu tháng 10/1999 lãi suất tiền gửi không kỳ hạn chỉ còn
0, 3% trên tháng so với lãi suất 0, 8% trên tháng đầu năm 1999; lãi suất tiền gửi kỳ
hạn 6 tháng chỉ còn 0, 5% trên tháng so với 0, 75% trên tháng vào đầu năm 1999.
Tính ra giảm 34, 5%. Hai mức lãi suất trên ngang bằng với lãi suất thời kỳ bao cấp
ở miền Bắc nước ta trong những năm đấu của thập kỷ 60 và đầu thập kỷ 70.
Có thể nói, lãi suất ngân hàng là tấm gương phản chiếu thực trạng nền kinh tế
của một quốc gia hoặc lãnh thổ ở từng thời điểm. Khi nền kinh tế khủng hoảng
nhất là nền kinh tế thiếu phát thì các công cụ của chính sách tiền tệ do thống đốc
NHNN diều hành trở lên kém hiệu quả, trong đó có lãi suất ngân hàng
IV. ẢNH HƯỞNG CỦA LẠM PHÁT ĐẾN NỀN KINH TẾ NƯỚC TA:
1. Ảnh hưởng của lạm phát
Bốn mục tiêu kinh tế cơ bản của mọi quốc gia (Kinh tế tăng trưởng cao, lạm
phát thấp, thất nghiệp ít, cán cân thanh toán có số dư ) được các nhà kinh tế thế
giới ví như bốn đỉnh của một tứ giác - Tứ giác kinh tế. Bởi vậy chúng có vị trí rất
quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế. Trong đó mục tiêu tăng trởng knh tế
cao và lạm phát thấp là những mục tiêu có tầm quan trọng hàng đầu. Và đặc biệt là
đối với nước ta, tăng trưởng kinh tế cao là mục tiêu quan trọng nhát bởi hai lí do:
24
Thứ nhất: Điễm xuất phát về kinh tế của nước ta rất thấp, mặc dù tốc độ
GDP vẫn tăng nhưng chậm, nước ta là một trong vài chục nước có GDP bình quân
đầu người thấp nhất thế giới chỉ bằng 1/2 của Trung Quốc, 1/3 Indonesia, 1/4
Philippin...
Vì vậy nếu nước ta không tăng trưởng kinh tế cao thì chẳng những không rút
ngắn được khoảng cách so với các nước khác mà còn đứng trước một nguy cơ lớn
- nguy cơ tụt hậu xa hơn nửa ddối với khu vực và thế giới. Từ đó dẫn đến nguy cơ
chệch hướng diễn biến hoà bình và tiêu cực sẽ tăng lên..làm cho xã họi mất ổn
định.
Thứ hai: Mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao có tác dụng quyết định các mục
tiêu còn lại về kinh tế. Tăng trưởng kinh tế cao và tạo ra nhiều hàng hoá, tạo tiền
đề cho cân bằng tổng cung và tổng cầu, do đó có điều kiện kiềm chế lạm phát.
Kinh tế tăng trưởng cao sẽ làm cho tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế tăng, chẳng
những nâng cao mức sống mà còn tạo thêm nhiều chỗ làm mới góp phần giải quyết
tình trạng thất nghiệp hoặc thiếu việc làm do tốc độ tăng dân số ở nước ta còn cao.
Tăng trưởng kinh tế cao cũng sẽ góp phần đáp ứng nhu cầu của tiêu dùng, nhu cầu
tích luỹ đấu tư, giảm bớt nhập siêu, tiến tới thăng bằng cán cân thanh toán
Vì vậy nền kinh tế tăng trưởng cao là mục tiêu quan trọng nhất thì lạm phát là
mục tiêu quan trọng thứ hai bởi vì lạm phát chẳng những tác động trực tiếp tiêu
dùng, đời sống người tiêu dùng mà còn tác động lớn tới người sản xuất, đến tốc độ
tăng trưởng kinh tế Vậy lạm phát tác động đến tăng trưởng kinh tế như thế nào?
Giữa lạm phát và tăng trưởng có một mối quan hệ đặc biệt và được thể hiện ở
chỗ: Nếu quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và thất nghiệp, quan hệ giữa tăng
trưởng và cán cân thanh toán nhìn chung là quan hệ thuận, lúc ngược chiều khó
nhận biết. Và thực chất của mối quan hệ này như thế nào thì đã có nhiều ý kiến
xung quanh vấn đề này. Có ý kiến cho rằng để nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ
cao đòi hỏi phải có lượng vốn đầu tư lớn tức là tiền mặt rung ra thị trường trong
khi sản phẩm thu hồi chậm, tất yếu sẽ dẫn đến lạm phát cao, lạm phát cao sẽ tác
25
động kính thích tăng trưởng kinh tế. Lại có ý kiến cho rằng: Để nền kinh tế tăng
trưởng cao thì phải kiềm chế được lạm phát ở mức độ thấp
Ta biết rằng lạm phát cao do nhiều nguyên nhân song nguyên nhân chủ yếu là
trong lưu thông, tiền mặt nhiều hơn hàng. Lúc đó sẽ xảy ra các tình hình:
Tiền mặt giống như hòn than “nóng” ai cũng muốn “đẩy” nhanh ra khỏi túi
mình, chuyển thành hàng hoá hoặc vật quý, gây tâm lí đầu cơ tích trữ mà không
dồn tiền cho đầu tư phát triển. Do đó kinh tế tăng trưởng thấp, không tăng hoặc có
thể giảm sút.
Tiền ra khỏi ngân hàng thì nhiều mà quay lại thì ít, tiền lưu thông lớn, giá cả
hàng hoá tăng cao, thị trường lại thiếu tiền mặt. Ngân sách luôn bội chi. Ngân hàng
buộc phải phát hành tiền cho kênh tín dụng bù đắp cho bội chi ngân sách càng tạo
thêm vòng xoáy lạm phát
Lạm phát cao tất yếu dẫn đến lãi suất tiền gửi và tiền cho vay đều cao, làm
cho các nhà sản xuất không giám vay để phát triển kinh tế
Người có tiền gửi tiết kiệm bị thiết thòi lớn do lãi suất âm(lãi suất tiết kiệm
nhờ ngân hàng tăng giá)
Lạm phát cao còn hạn chế khả năng phát hàng cổ phiếu, trái phiểu của doanh
nghiệp vì trong trường hợp này lợi tức cổ phiếu, trái phiếu phải cao, doanh nghiệp
không thể chịu đựng được . Như vậy lạm phát cao sẽ làm tốc độ tăng trưởng kinh
tế thấp, và từ sự phân tích trên ta thấy mục tiêu điều tiết vĩ mô trong những năm tới
vẫn phải đưa lên hàng đầu yêu cầu giảm lạm phát. Chúng ta phải đi theo con
đường tăng trưởng cao và lạm phát thấp mới rút gắn được khoảng cách, mới đỡ tụt
hậu so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Lạm phát thấp thúc đẩy nhanh
sự ra đời và phát triển thị trường vốn trong nước.
2. Ảnh hưởng của thiểu phát trong nền kinh tế:
Hiện tượng giảm phát kéo dài từ những năm 1986 đến nay đã gây ra thiểu
phát, làm ảnh hưởng lớn đến tăng trưởng kinh tế
26
Trong 9 tháng đầu năm 1999, đặc biệt là từ tháng ba đến tháng 8 hiện tượng
giảm phát diễn ra liên tục, số lạm phát dưới mức một con số (0, 2%) thấp hơn so
với mục tiêu dề ra (10%) rất nhiều. Từ đó gây ra tình trạng người có vốn tự có
không muốn dồn tiền vào dầu tư phát triển mà chuyển sang cho vay để hưởng lãi
“đúp” bao gồm lãi suất tiền gửi và lãi suất do thiểu phát, tiền lên giá. Tiền để trong
“hòm” cũng có lãi là vì thế. Người không có vốn thì không giám đi vay để đầu tư
phát triển, vì sau một chu kỳ sản xuất kinh doanh, do giảm giá, nên lợi nhuận sẽ
thấp, lại còn phải trả lãi suất tiền vay nên không có lợi nhuận, thậm chí còn bị lỗ.
Tiền gửi vào ngân hàng thì nhiều nhưng cho vay không hết, tất yếu hàng hoá sẽ ứ
đọng vốn, tạo nên một nghịch lý: Nhu cầu tăng trưởng thì thiếu vốn, trong khi ngân
hàng và đầu tư vốn lại ứ đọng. Mà nguyên nhân chủ yếu vẫn là trong lưu thông,
tiền mặt ít hơn hàng hoá gây ra một hiện tượng kinh tế - xã hội không bình thường.
Các doanh nghiệp kinh doanh cầm chừng, thậm chí còn bị thua lỗ, hàng hoá ứ
đọng ở mức cao chưa từng thấy. Tính đến hết tháng 5-1999, đường của các nhà
máy sản xuất còn tồn kho trên 255. 000 tấn gấp 3 lần tồn kho cùng kỳ, than còn tồn
kho trên 2 triệu tấn, xi măng trên 21 vạn tấn, lúa gạo tiêu thụ rất khó khăn. Kim
ngạch xuất khẩu so với cùng kỳ đạt 41% so với kế hoạch. Một số loại bị giảm như:
Gạo giảm 21, 7 %, lạc nhân giảm 21, 4 %, hạt điều giảm 41, 4 %... , giá xuất khẩu
những mặt hàng có lợi thế đều sút giảm: Giá gạo giảm xuống. Như vậy thiểu phát
làm lạm phát thấp cũng làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp (thuận chiều)
nhưng nếu trong điều kiện kinh tế tăng trưởng với tốc độ cao mà lạm phát ở mức
quá thấp thì cũng không khác gì trường hợp thiểu phát.
Từ sự phân tích trên ta thấy rằng lạm phát và thiểu phát đều tác động mạnh
đến nền kinh tế, nó kìm hãm tốc độ tăng trưởng kinh tế, hạn chế mở rộng quy mô
sản xuất, sản lượng giảm gây ra các hiện tượng tiêu cực trong xã hội: đầu tư có tích
chữ, độc quyền... Như vậy "liều lượng" lạm phát như thế nào là vừa, là hợp lý để
vừa có tác dụng kích thích vừa không hạn chế tốc độ tăng trưởng kinh tế?
27
V. BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC
1. Biện pháp khắc phục lạm phát:
Về mặt lí luận thì giải pháp chung được lựa chọn để khác phục thường là:
a- Một là: Đối với cuộc siêu lạm phát và lạm phát phi mã hầu như đều gắn
chặt với sự tăng trưởng nhanh chóng về tiền tệ, có mức độ thâm hụt ngân sách
cao, và có tốc độ tăng lương danh nghĩa cao. Vì vậy giảm mạnh tốc độ tăng cung
tiền, cắt giảm mạnh mẽ chi tiêu ngân sách và kiểm soát có hiệu quả việc tăng
lương danh nghĩa chắc chắn sẽ chặn đứng và đẩy lùi lạm phát. Thực chất của giải
pháp trên là tạo ra cú sốc cầu, đẩy nền kinh tế đi xuống dọc theo đường Philip ngắn
hạn và có sự đánh đổi tạm thời giữa lạm phát và thất nghiệp. Tức là lúc này nó gây
ra một mức độ suy thoái và thất nghiệp nhất định. Nếu biện pháp trên được duy trì
thì nền kinh tế sẽ tự điều chỉnh và sau một thời gian giá cả sẽ đạt ở mức lạm phát
thấp hơn và sản lượng trở lại tiềm năng
28
PC3
gp
GP PC2
PC1
O
U*
U
H - Đường Phillips ngắn hạn
b- Hai là: Đối với lạm phát vừa phải, kiềm chế và đẩy từ từ xuống thấp hơn
cũng đòi hỏi áp dụng các chính sách nói trên tuy nhiên hậu quả kéo theo là suy
thoái và thất nghiệp- cái giá quá đắt nên về lâu dài, phải chăm lo mở rộng sản
lượng tiềm năng bằng nguồn vốn trong và ngoài nước để đảm bảo nâng cao sản
lượng, mức sống vừa ổn định, giá cả một cách vững.
Cái giá phải trả của lạm phát không tương xứng với lợi ích đem lại của chúng.
Vì vậy mà các quốc gia thường chấp nhận lạm phát ỏ mức thấp và xử lí ảnh hưởng
của nó bằng việc chỉ số hoá các yếu tố chi phí: tiền lương. lãi suất, giá vật tư... đó
là cách tốt nhất để hạn chế thiệt hại của lạm phát.
Trên thực tế ở Việt Nam chúng ta dã làm gì để chống lạm phát. Chỉ thị số 43-
TTG của thủ tướng chính phủ đã được Quốc hội thông qua ngày 22-1-1996. Yêu
cầu các bộ ngành và các địa phương khẩn trương thực hiện một số giải pháp chống
lạm phát chủ yếu sau đây:
+Một là: Tập trung mọi nguồn lực, nâng cao năng suất lao động, triệt để tiết
kiệm, giảm chi phí sản xuất để đẩy mạnh sản xuất
29
+Hai là: Các giải pháp về tiền tệ - tài chính phải được áp dụng một cách đồng
bộ nhằm tiếp tục điều chỉnh lãi suất và tỷ giá phù hợp với yêu cầu phát triển kinh
tế xã hội trong giai đoạn mới
+Ba là: Các biện pháp về ngân sách Nhà nước như phấn đấu tăng thu, thực
hiện triệt để tiết kiệm giảm bội chi ngân sách Nhà nước, tăng dự trữ tài chính, đảm
bảo cân đối ngân sách Nhà nước vững chắc lành mạnh là biện pháp cơ bản góp
phần kiềm chế lạm phát. Tăng cường công tác quản lý thu và chống thất thu thuế...
+Bốn là: Các giải pháp diều hành cung cầu, thị trường và lưu thông hàng hoá:
Đảm bảo lưu thông hàng hoá thông suốt trong cả nước, chống đầu cơ, tích trữ, nạn
khan hiếm giả tạo, kích thích giá tăng lên, gây thiệt hại cho sản xuất và đời sống.
Tổ chức tốt việc thực hiện quyết định số 846 -TTG ngày 30-12-1995 của thủ tướng
chính phủ về chính sách hàng hoá và điều hành công tác xuất nhập khẩu năm 1996.
Ban vật giá Chính phủ phải theo dõi sát sao diễn biến giá cả thị trường, nắm bắt
kịp thời các thông tin về tình hình sản xuất... để ngăn chặn các dấu hiệu dẫn đến
phát sinh đột biến giá.
+Năm là: Các bộ, Ngành có liên quan tổ chức bàn giao định kỳ hàng tháng để
nắm chắc diễn biến tình hình về hàng hoá, tiền tệ, thị trường... để kịp thời đề xuất
với chính phủ để có các biện pháp xử lí kịp thời.
Trên đây là những biện pháp cơ bản vừa ở tầm vĩ mô vừa ở tầm vi mô đã
được thực hiện khẩn trương ngay từ đầu năm 1996 góp phần kiềm chế lạm phát ở
mức thấp chấp nhận được. Bên cạnh đó cũng góp phần thực hiện thắng lợi những
nhiêm vụ kinh tế xã hội trong những năm qua.
2. Biện pháp khắc phục thiểu phát:
Từ giữa năm 1998, kinh tế nước ta vẫn tăng trưởng nhưng ở mức thấp và
đang trên đà suy giảm
Các ngành sản xuất gặp khó khăn vể thị trường và vấn đề đổi mới kỹ thuật,
công nghệ. Vấn đề mất cân đối giữa hàng và tiền, thực chất là mất cân đối khối
lượng hàng hoá trên thị trường với nhu cầu có khả năng thanh toán của nền kinh tế
30
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 30 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Thực trạng lạm phát ở nước ta hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_thuc_trang_lam_phat_o_nuoc_ta_hien_nay.pdf