Rừng nhiên liệu hay lương thực? Các liên minh cạnh tranh và hoạch định chính sách nhiên liệu sinh học ở Philipin
Forests, Fuel, or Food? Competing Coalitions and Biofuels Policy Making in the  
					Philippines  
					Marvin Joseph F. Montefrio1 và David A. Sonnenfeld1  
					Journal of Environment & Development XX(X) 1–23, 2011. Published by SAGE.  
					Rừng, nhiên liệu hay lương thực? Các liên minh cạnh tranh và hoạch định chính sách  
					nhiên liệu sinh học ở Philipin  
					Marvin Joseph F. Montefrio1 và David A. Sonnenfeld1  
					Tóm tắt  
					Là quốc gia đầu tiên ở Đông Nam Á xây dựng pháp chế về nhiên liệu sinh học, Cộng hòa  
					Philipin được xem là hình mẫu về việc thực thi pháp chế này trong khu vực. Bài báo này sử  
					dụng trường hợp Philipin để giải thích sự cạnh tranh giữa các liên minh trên phương diện  
					chính sách diễn ra thế nào trong việc hình thành và thay đổi chính sách nhiên liệu sinh học.  
					Phân tích về nội dung các bài báo và các tài liệu của Chính phủ được công bố từ 2002 đến  
					2009 cho thấy có bốn liên minh chính: Những người đề xướng nhiên liệu sinh học, Khả năng  
					kỹ thuật, An ninh lương thực, và Bảo tồn rừng. Đồng thời những liên minh này tạo nên sự  
					khác biệt về mặt chính trị trong các văn bản về nhiên liệu sinh học ở Philipin. Trong những  
					văn bản này, liên minh bảo tồn rừng là yếu hơn cả, điều này có nghĩa là ảnh hưởng của nó đến  
					chính sách nhiên liệu quốc gia khá hạn chế. Điểm yếu của liên minh này có thể do nhận thức  
					của các nhà hoạch định chính sách và công chúng là bảo tồn rừng không gắn với kinh tế xã  
					hội và phần nào là do trạng thái trầm lắng làm cho đất rừng nguyên sinh thiếu giá trị môi  
					trường thiết yếu ở rất nhiều các quần đảo.  
					Từ khóa: bảo tồn rừng, chính sách nhiên liệu sinh học, an toàn lương thực, chính sách môi  
					trường, các liên minh nghị luận, Đông Nam Á, điezen sinh học, cồn sinh học  
					Giới thiệu  
					Trên thế giới, có rất nhiều quốc gia đang thực thi các chính sách và các khung quy định mới  
					đối với sản xuất và sử dụng nhiên liệu sinh học (cf. McMichael, 2009; Mol, 2007; Mol, 2010).  
					Năm 2007, hơn 30 quốc gia bắt đầu các chương trình cồn sinh học, trong đó Braxin và Hoa  
					Kỳ là hai nước dẫn đầu. Chính phủ các nước này thể hiện quyết tâm phát triển nhiên liệu sinh  
					học thông qua việc xây dựng và ban bố các chính sách và luật mới. Ví dụ, Mexico, Paraguay,  
					Peru và Philipin là các quốc gia mà thực thi cả việc sản xuất nhiên liệu sinh học và pha trộn  
					với nhiên liệu hóa thạch, sau đó phân phối tại các trạm bán lẻ nhiên liệu (Jull, Redondo,  
					Mosoti, & Vapnek, 2007).  
					Năm 2007, Chính phủ Philipin đã thông qua đạo luật nhiên liệu sinh học (Bộ luật số 9367),  
					trong đó thiết lập những mục tiêu rõ ràng cho việc phát triển và sử dụng điezen sinh học và  
					1 Đại học New York, Syracuse, NY  
					Tác giả chịu trách nhiệm: Marvin Joseph F. Montefrio, Bộ môn Nghiên cứu Môi trường, Đại  
					học Khoa học Môi trường và Lâm nghiệp SUNY, Syracuse, NY 13210-2787.  
					Email: mfmontef@syr.edu  
					1
					 
				cồn sinh học trong giao thông đường bộ quốc gia. Cộng hòa Philipin, quốc gia đầu tiên ở khu  
					vực Đông Nam Á có pháp chế khuyến khích phát triển nhiên liệu sinh học, được thừa nhận là  
					một hình mẫu về thực thi nhiên liệu sinh học điển hình khắp châu Á và trong thế giới các  
					nước đang phát triển (Ho, 2008).  
					Đạo luật nhiên liệu sinh học Philipin được hình thành và phê chuẩn khi giá dầu đang leo thang  
					kỷ lục. Biến đổi khí hậu toàn cầu, chất lượng không khí đô thị và phát triển nông thôn là  
					những mối lo ngại khác đã khiến cho pháp chế này được Quốc hội Philipin thông qua ngay  
					lập tức (Zhou & Thomson, 2009). Quả thực, những nghiên cứu trước đây đã ủng hộ tiềm năng  
					của nhiên liệu sinh học trong việc làm giảm nhẹ phát thải cacbon đioxit và các chất ô nhiễm  
					không khí khác (ví dụ như sunfua oxit và các hợp chất khác) từ giao thông đường bộ ở  
					Philipin (Pascual & Tan, 2004; Tan, Culaba, & Purvis, 2004). Sự hình thành của công nghiệp  
					nhiên liệu nông nghiệp được trông đợi tạo ra cơ hội việc làm và các hoạt động sinh nhai khác  
					cho người dân ở nông thôn. Phát triển nhiên liệu sinh học thu hút đầu tư cần thiết và các công  
					nghệ mới để đem lại sức sống cho các thành phần nông nghiệp vốn bị sao nhãng (Malik,  
					Ahmed, Sombilla, & Cueno, 2009).  
					Mặc dù chính sách về nhiên liệu sinh học của Philipin được dự báo là sẽ thành công và mở  
					đường cho các chính sách môi trường tiến bộ, nhưng chính bản thân nó cũng đã tạo ra những  
					thách thức đối với vấn đề an ninh lương thực và bảo tồn rừng. Hệ thống pháp chế hướng đến  
					mục tiêu bù đắp việc sử dụng nhiên liệu hóa thạch trong giao thông và kiềm chế phát thải khí  
					nhà kính. Tuy nhiên nó cũng làm nảy sinh những quan ngại về sự gia tăng nhu cầu đối với các  
					cây trồng làm nhiên liệu sinh học. Điều này dẫn đến sự thay thế của một số giống cây lương  
					thực hiện có (Boddiger, 2007; Mitchell, 2008; Rosegrant, 2006; McMichael, 2010) và cả cây  
					rừng nhiệt đới (Danielsen và nnk, 2008; Fargione, Hill, Tilman, Polasky, & Hawthorne, 2008;  
					Koh & Wilcove, 2008; O’Connor, 2008).  
					Bài báo này tìm hiểu sự cạnh tranh giữa bốn liên minh nghị luận trong việc hoạch định chính  
					sách nhiên liệu sinh học ở Philipin giai đoạn 2002 - 2009. Chúng tôi phát hiện rằng liên minh  
					gắn liền với bảo tồn rừng đã bị cách ly về mặt chính trị với các khối liên minh khác như an  
					ninh năng lượng, phát triển nông thôn, phát triển kỹ thuật, hay thậm chí là an ninh lương thực.  
					Có hai định đề giúp giải thích về sự yếu kém của liên minh bảo tồn rừng. Thứ nhất, lợi ích  
					kinh tế là một thuộc tính phổ biến trong các liên minh có ảnh hưởng lớn hơn đến sự hình  
					thành và chuyển biến của chính sách nhiên liệu sinh học; bảo tồn rừng ít tạo ra sức ép đến  
					hoạch định chính sách (các nhà xây dựng chính sách) và công chúng bởi vì còn thiếu nhận  
					thức về mối quan hệ kinh tế xã hội ngắn hạn. Thứ hai, sự khuyến khích phát triển nhiên liệu  
					sinh học như là một con đường hướng đến cắt giảm phát thải khí nhà kính bị phê phán vì nó  
					có thể là một nhân tố góp phần hủy hoại rừng. Do đó, những hứa hẹn về tính bền vững của  
					nhiên liệu sinh học trong quá trình lựa chọn chính sách là để tạo tiền đề cho việc mở rộng lĩnh  
					vực nhiên liệu sinh học quốc gia.  
					Các phần tiếp theo sẽ tìm hiểu nội hàm của các liên minh, mô tả phương pháp áp dụng trong  
					nghiên cứu, và cung cấp nền tảng lịch sử về phát triển nhiên liệu sinh học ở Philipin. Các vấn  
					đề và đặc điểm nổi bật của các liên minh được phác họa dựa trên kết quả phân tích và thảo  
					luận về chương trình nhiên liệu sinh học. Bài báo đưa ra những khuyến cáo về việc đẩy mạnh  
					2
				bảo tồn rừng trên khía cạnh phát triển cây trồng sản xuất nhiên liệu sinh học ở các vùng đồi  
					núi của Philipin.  
					Các liên minh và quá trình soạn thảo chính sách  
					Phân tích về các liên minh có vai trò quan trọng để hiểu được quá trình soạn thảo chính sách.  
					Trong mạng lưới chính sách, nơi việc soạn thảo chính sách không hoàn toàn là đa nguyên và  
					cũng không hạn chế đối với các nhóm thiểu số, các nhóm thường tập trung xung quanh một  
					hay một số ban ngành của chính phủ với hy vọng tác động lên chính sách (Rhodes & Marsh,  
					1992). Sự thống nhất một vấn đề trong phạm vi một mạng lưới chính sách là sản phẩm của  
					“quá trình tiếp diễn của sự thương lượng mà được nhận định như là việc xây dựng liên minh”.  
					(Marsh & Rhodes, 1992, p. 260). Điều này chỉ ra rằng các liên minh liên kết bởi sự phụ thuộc  
					qua lại về tài nguyên bao hàm tri thức, lập pháp, quyền lực, và các quyền lợi có vai trò quan  
					trọng đối với những thay đổi trong soạn thảo chính sách và sản phẩm đầu ra (Bulkeley, 2000).  
					Gắn kết sự hình thành các liên minh với xây dựng chính sách là hai nhân tố: khung liên minh  
					vận động (ACF) và cách tiếp cận của liên minh nghị luận.  
					Các nhà vận động liên minh cho rằng sự cạnh tranh mạnh mẽ giữa các liên minh sẽ tác động  
					đến sự hình thành và biến đổi của chính sách. Một tác nhân kết nối sử dụng trong phân tích đó  
					là phụ hệ chính sách mà bao gồm các liên minh vận động đóng vai trò trong việc tạo dựng,  
					thực thi, phổ biến và đánh giá các mục tiêu của chính sách (Sabatier, 1988). Các liên minh  
					vận động bao gồm không chỉ những thành phần của tam giác sắt (ví dụ, các ban quản trị, ủy  
					ban lập pháp, và các nhóm lợi ích), mà còn bao gồm cả cơ quan các cấp của chính phủ, các  
					nhà nghiên cứu, các nhà phân tích chính sách và truyền thông (Sabatier & Jenkins-Smith,  
					1999, pp. 135-136). Trung tâm kết hợp của những thành phần trong các liên minh vận động là  
					một hệ niềm tin có liên quan đến các ưu tiên giá trị (các giá trị quy chuẩn) và sự hiểu biết về  
					hiệu lực của các công cụ chính sách khác nhau (Jenkins-Smith & Sabatier, 1994, pp. 180-  
					181). Bổ sung cho các hệ niềm tin, những thành phần trong một liên minh vận động “sắp xếp  
					thêm vào các hoạt động kết nối trọng yếu” (Sabatier, 1998, p. 103).  
					Tiếp cận của ACF cho thấy có bốn con đường để thay đổi một phụ hệ chính sách: học hỏi các  
					thông tin và kinh nghiệm mới; xáo trộn phụ hệ; hợp pháp hóa cho các liên minh thiểu số trong  
					các sự kiện nội tại của phụ hệ; và thỏa hiệp liên quan đến hai hay nhiều liên minh (Sabatier &  
					Jenkins-Smith, 1999, p. 123; Sabatier & Weible, 2007, pp. 204-207). Trong hầu hết các con  
					đường, những thay đổi chính sách xảy ra đồng thời với sự thay đổi trong hệ niềm tin.  
					Bất chấp những hứa hẹn của mình, tiếp cận của ACF đã bị chỉ trích trên một số phương diện,  
					đặc biệt liên quan đến sự vận động của liên minh và các hệ niềm tin. Trong những thách thức  
					thì ranh giới giữa các liên minh vận động dựa trên các hệ niềm tin không thể được xác định  
					một cách rõ ràng (Hajer, 1995, pp. 67-68). Những xung đột có thể nổ ra giữa những thành  
					phần chia sẻ niềm tin (Jordan & Greenaway, 1998), và giữa những người chung niềm tin  
					nhưng nắm giữ những vị trí khác nhau (Hajer, 1995). Với những lập luận này, Sebatier (1998,  
					p119) đã thừa nhận rằng “liên minh về sự tiện lợi” xuất hiện trong khắp các nhóm với lợi ích  
					và niềm tin khác nhau, ở các thời điểm khác nhau có thể là cần thiết để đạt được những thay  
					đổi trọng yếu trong chính sách.  
					3
				Ngược lại, Hajer (1995) đề xuất một cách tiếp cận khác để phân tích quá trình soạn thảo chính  
					sách được tiến hành như là “một nỗ lực trong đó những thành phần cố gắng có được sự ủng  
					hộ cho những quan niệm về thực tại của họ” (p.59). Nhận thức của giới lãnh đạo về vấn đề  
					chính sách cụ thể có thể có được thông qua sự gắn kết và tin cậy của các bài viết. Các khái  
					niệm được làm rõ bởi một liên minh nghị luận được thông qua trong quá trình soạn thảo chính  
					sách thay thế cho những nhận thức trước đây về vấn đề này (“nghị luận thể chế hóa”). Nghị  
					luận ở đây được định nghĩa là “một sự đồng bộ về ý tưởng, các khái niệm và sự phân loại  
					được khởi tạo, tái tạo và chuyển hóa trong một loạt các hoạt động thực tiễn và thông qua các  
					thực tại vật chất và xã hội” (p.44).  
					Liên minh nghị luận “không nhất thiết dựa trên những lợi ích và mục tiêu chung, nhưng nó  
					dựa nhiều hơn trên các thuật ngữ và khái niệm chung thông qua các quá trình xã hội và vật  
					chất và bản chất của vấn đề chính sách được xây dựng” (Hajer, 1996 trích dẫn trong Bulkely,  
					2000). Nhận thức chung về một vấn đề chính sách không đòi hỏi niềm tin hay thế giới quan  
					tương tự. Sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các liên minh dựa trên không chỉ quyền lực và lợi ích  
					mà còn dựa trên sự hiểu biết, ý nghĩa và lý lẽ (Bulkeley, 2000).  
					Hajer (1995, p.56) viện dẫn khái niệm về “nội hàm” như là một cách thức thông qua cái mà  
					các thành tố khác nhau về hiện thực vật chất và xã hội được nhất quán trong các bài viết phổ  
					biến và những ý nghĩa nhất định. Liên minh nghị luận chứa hàng loạt các nội hàm, những  
					thành phần tham gia và diễn thuyết các nội hàm, và các hoạt động cấu thành nội hàm. Những  
					thành phần này có thể tạo ra các nội hàm khác nhau trong các bối cảnh thể chế hóa khác nhau,  
					và do đó làm thay đổi liên minh nghị luận.  
					Nghiên cứu này sử dụng tiếp cận liên minh chính sách để tìm hiểu sự phát triển và thực thi  
					việc ban hành chính sách về nhiên liệu sinh học ở Philipin. Trong chủ đề và bối cảnh này,  
					việc xác định và phân tích các liên minh dựa trên hệ niềm tin được minh chứng là khó khăn  
					hơn so với việc chỉ dựa thuần túy trên các phân tích luận; khung liên minh nghị luận được  
					chứng minh là cách tiếp cận hữu hiệu nhất. Thành viên của các liên minh chính sách dễ thay  
					đổi và việc xây dựng liên minh là dễ gây tranh cãi và không mạch lạc. Sự kết nối về trí tuệ là  
					cần thiết để duy trì các liên minh thể chế và quyền lực.  
					Phương pháp  
					Nghiên cứu này tìm hiểu các liên minh nghị luận trong mạng lưới chính sách nhiên liệu sinh  
					học ở Philipin từ năm 2002 đến 2009. Để xác định các liên minh nghị luận liên quan, các tạp  
					chí và văn bản chính phủ được phân tích các nội hàm mà cho phép nhận diện được các chỉ số  
					về sự quan tâm của cộng đồng và sự rõ nét của những cải tiến chính sách. Phân tích nội hàm  
					được sử dụng rộng rãi để tìm hiểu việc thiết lập chương trình và xác định vấn đề trong quy  
					trình ra quyết định, cung cấp phương thức nghiên cứu cả tiến độ và thời gian của việc cải tổ  
					chính sách (Kinney, 2006). Trong bối cảnh ở Philipin (với một sức ép về tự chủ khá lớn), các  
					tạp chí cho phép kiểm tra chéo các dữ liệu trong các văn bản chính thức và thường xuyên hé  
					lộ những nhân vật có liên quan và các vấn đề trước đây.  
					Các bài viết xuất bản trên các tạp chí có nhiều độc giả nhất như The Philippine Daily  
					Inquirer, The Philippine Star, và the Manila Bulletin được lựa chọn để xem xét. Việc lựa  
					4
				Tổng cộng có 27 văn kiện chính thức của chính phủ và 216 bài báo được xem xét. Các bài báo  
					được nhóm lại dựa trên các chủ đề và nội hàm phổ biến, với sự nhấn mạnh về các vấn đề đã  
					được tranh luận và các tranh cãi về chính sách nơi mà các thành phần có những đòi hỏi mẫu  
					thuẫn nhau. Ví dụ, các bài báo hay nội hàm được xác định bởi thế giới quan của những thành  
					phần đối với các tác động của nhiên liệu sinh học và tình trạng khẩn cấp của việc phê chuẩn  
					và thực thi chính sách nhiên liệu sinh học. Đối với các bài báo, các nội hàm được dựa trực  
					tiếp trên những trích dẫn thuộc ngữ của những thành phần chính sách, hay cách diễn giải và  
					tổng hợp của người viết về các thành phần. Những nội hàm được nắm bắt từ các bản ghi chính  
					thức của các bài diễn thuyết và nghị luận tại Quốc hội; những nguyên liệu này chứa đựng  
					những dữ liệu rất phong phú về cách thức thế nào để các vấn đề được kết nối và cân nhắc giữa  
					những thành phần bất đồng. Đánh giá về sản phẩm chính sách được dựa trên phân tích đối với  
					các chủ đề pháp chế, biên bản ghi nhớ của chính phủ và các báo cáo. Các liên minh được xác  
					định thông qua một cụm những phân tích đối với những thành phần và nội hàm trọng yếu.  
					Các bài báo được mã hóa theo tần xuất, các liên minh được trình bày và sự thay thế cơ học  
					trong báo. Các bài báo xuất hiện trong nhiều các công trình công bố đặc biệt với nội dung  
					tương tự trong vòng 2 đến 3 ngày được thống kê gộp làm một. Những thành phần của liên  
					minh được xác định bằng cách tham chiếu trực tiếp từ các bài báo và các văn bản được xem  
					xét. Do đó, những thành phần liên quan đến mỗi liên minh có thể là nhiều hơn những gì được  
					phát hiện trong bài báo này. Tuy vậy, những thành phần được xác định có thể được coi là nổi  
					bật nhất ở cấp độ quốc gia.  
					Cách tiếp cận liên minh nghị luận là phù hợp về phạm vi áp dụng và phù hợp với chính  
					trường chính thống ở Philipin. Philipin có thể chế chính trị dân chủ tự do dựa trên hiến pháp  
					được thông qua năm 1987, với các phân nhánh về hành pháp và lập pháp được bầu chọn  
					tương tự như mô hình chính trị của Hoa Kỳ. Thực tế, cách tiếp cận này có thể không hoàn  
					toàn phù hợp với bối cảnh của Philipin, đặc điểm địa lý quốc gia và tính đa dạng về chủng  
					tộc, và vai trò nối tiếp của các phe cánh truyền thống và quân đội trong kinh tế và chính trị  
					trong số các nhân tố. Tuy vậy, cách tiếp cận liên minh nghị luận vẫn làm hé mở những thông  
					tin quan trọng về nhóm lợi ích có ảnh hưởng tới việc hoạch định chính sách ở Philipin.  
					Nền tảng lịch sử  
					5
				Lợi ích về nhiên liệu sinh học ở Philipin bắt đầu từ cuối những năm 1970 khi 25 trạm kinh  
					doanh xăng dầu ở tỉnh Negros Occidental, thủ phủ mía đường của Philipin bắt đầu bán “xăng  
					cồn” (10% cồn được pha vào xăng). Điều này có được là do nỗ lực của nhà máy mía đường  
					lớn nhất Philipin, Victorias Milling Company, nơi mà vào thời điểm đó đã sản xuất tới 30.000  
					lít xăng cồn (ASEAN Forecast, 1981). Tháng 2 năm 1980, Chính quyền Marcos đã công bố  
					sắc lệnh số 580 để phát động chính thức Chương trình xăng cồn quốc gia Phlipin (PNAP) như  
					một phản ứng trước sự leo thang của giá xăng dầu. Cũng trong năm đó, công ty xăng dầu  
					quốc gia Philipin (PNOC, 2009) đã thành lập tập đoàn cồn – PNOC để hỗ trợ cho chương  
					trình xăng cồn. Năm 1981, chính phủ Philipin thử nghiệm điezen sinh học pha trộn 30% từ  
					dầu dừa (điezen dừa) cho xe buýt và tàu hỏa. Tuy nhiên, đầu năm 1982 lượng xăng dầu lưu  
					hành tràn ngập thị trường nội địa trong khi sản xuất điezen tại địa phương lại suy giảm về nhu  
					cầu. Điều này đã khuyến khích đổi hướng trú trọng từ xăng cồn sang điezen (Armas & Cryde,  
					1984).  
					Tháng 9 năm 1982, Sắc lệnh số 827 được ban bố với các điều khoản về miễn giảm thuế để  
					khuyến khích sử dụng dầu dừa cho sản xuất điezen dừa. Nội các đã cam kết rằng chương trình  
					điezen dừa sẽ tiếp tục trong những điều kiện không thuận lợi của thị trường thế giới đối với  
					dầu dừa và nhiên liệu điezen. Do đó chương trình điezen dừa đã trở thành một con đường hợp  
					lý hóa ngành công nghiệp ép dầu dừa hơn là một chương trình phát triển năng lượng. Trong  
					năm 1983, cả hai chương trình xăng cồn và điezen dừa đều bị gián đoạn do sự sụt giảm giá  
					dầu mỏ và triển vọng từ thị trường thế giới đối với dừa và mía đường (Armas & Cryde, 1984).  
					Những tham vọng về nhiên liệu sinh học của Philipin đã phải mất hai lần gián đoạn cho đến  
					khi giá dầu mỏ bắt đầu tăng trở lại trong giai đoạn đầu những năm 2000. Tháng 11 năm 2002,  
					Cục Môi trường và Tài nguyên thiên nhiên (DENR) chính thức tái khởi động lại chương trình  
					điezen dừa và huy động tất cả các phương tiện của chính phủ để tái thiết chương trình nhiên  
					liệu sinh học. Hai công ty tư nhân là Senbel Fine Chemicals Corporation và Flying V đồng ý  
					sản xuất và phân phối điezen dừa ở rất nhiều trạm xăng trên cả nước. Điều này đã khuyến  
					khích mở rộng sử dụng nhiên liệu sinh học bao gồm cả thử nghiệm pilot đối với Metro Manila  
					– một của nghiệp đoàn xe buýt công cộng tại thủ đô (Pahl, 2005, p. 134). Tháng 2 năm 2004,  
					biên bản ghi nhớ của tổng thống (Thông tư ghi nhớ 55) đã được ký huy động tất cả các ban  
					ngành bao gồm cả các tập đoàn quốc doanh và các tập đoàn chính phủ kiểm soát phải sử dụng  
					nhiên liệu pha trộn 1% điezen dừa cho tất cả các động cơ điezen. Cũng trong năm đó, các  
					thành viên Hạ viện tại Quốc hội nhiệm kỳ 13 ủng hộ cho sự phục hưng chương trình xăng cồn  
					Marcos nhằm phản ứng lại trước sự leo thang giá cả dầu mỏ trên thị trường thế giới. Điều này  
					đã dẫn đến Dự luật số 2583 của Hạ viện mà rất cần thiết cho Chương trình Nhiên liệu Etanol  
					Quốc gia. Dự luật này nhận được ủng hộ trong Hạ viện và sau này được đổi thành dự luật  
					hoàn chỉnh hơn – Dự luật số 4629 (HB4629), được thông qua gần như ngay lập tức trong quý  
					bốn năm 2005. Trong khi HB4629 cần thiết cho chương trình nhiên liệu sinh học thì nó vẫn  
					quan trọng đối với sản xuất và tiêu dùng bioetanol. Tháng 3 năm 2006, Thượng viện đệ trình  
					Dự thảo Thượng viện số 2226 (SB2226) tương ứng với HB4629 mà mở rộng mục tiêu của  
					chính sách để bao hàm cả điezen sinh học. Trong cùng tháng đó, Tổng thống Philipin –  
					Macapagal-Arroyo thúc giục ban hành dự luật đã đề xuất ngay lập tức. Tuy nhiên SB2226 vẫn  
					bị đình trệ cho đến trước khi hai bản thảo mới của dự luật được xem xét và ghép với luật công  
					6
				Việc thực thi đạo luật nhiên liệu sinh học có một kế hoạch chặt chẽ trong đó nhiên liệu phối  
					trộn bắt buộc phải đưa vào trong một khoảng thời gian ngắn. Trong vòng 6 tháng thực thi  
					chính sách, các chất phụ gia độc hại trong xăng dầu (ví dụ như metyl tert-butyl) được loại bỏ  
					ra khỏi các trạm xăng thương mại. Nhiên liệu sinh học phải được đưa vào các trạm bơm xăng  
					nhiên liệu pha trộn E5 (5% etanol trong xăng) và B2 (2% điezen sinh học trong điezen) trong  
					quý một năm 2009, và E10 năm 2011. Tuy nhiên, các công ty xăng dầu vẫn rất chậm chạm  
					nhập khẩu nhiên liệu sinh học khi thiếu hụt sản xuất ở địa phương (Zhou & Thomson, 2009).  
					Một Ủy ban về nhiên liệu sinh học quốc gia (NBB) đã được thành lập ngay lập tức sau khi  
					đạo luật về nhiên liệu sinh học được phê chuẩn. Nhóm này được giao phó kiểm soát và đánh  
					giá việc thực thi chính sách, bao gồm cả việc giám sát cung cấp và sử dụng nhiên liệu sinh  
					học, bảo đảm tính sẵn có cho các nguồn nhiên liệu sinh học bản địa, và đưa ra những khuyến  
					cáo cần thiết để điều chỉnh sự phối trộn nhiên liệu sinh học. Ủy ban được điều hành bởi thư  
					ký Cục Năng lượng và bao gồm các thành viên của các ban ngành chính phủ có liên quan  
					như: Cục Nông nghiệp, Cục Thương mại và Công nghiệp, Cục Khoa học và Công nghệ.  
					Trải qua vài thập kỷ gần đây, trong khi chính phủ Philipin chú trọng vào việc có được nguồn  
					nguyên liệu từ hai loại cây trồng chính hiện nay là dừa và mía đường, nghiên cứu và phát triển  
					nhiên liệu sinh học từ cây jatropha và etanol sinh học từ sắn và lúa miến ngọt đang được đảm  
					nhận bởi các tổ chức tại địa phương (Corpuz, 2007). Những đầu tư về nhiên liệu sinh học ở  
					Philipin đang tăng lên chưa từng có, thu hút rất nhiều các nhà đầu tư với tư cách là các đối tác  
					của các công ty địa phương trong việc mở rộng đất đai để trồng nguyên liệu và xây dựng các  
					cơ sở chế biến, chưng cất.  
					Bốn liên minh nghị luận  
					Rất nhiều những thành phần và các liên minh tham gia vào việc hình thành, thông qua và thực  
					thi các chính sách về nhiên liệu sinh học ở Philipin. Phân tích nội hàm báo chí và các văn bản  
					chính phủ ở Philipin trong cả giai đoạn 2002-2009 đã hé lộ bất đồng của bốn liên minh nghị  
					luận chính trong mạng lưới chính sách nhiên liệu sinh học. Nó bao gồm liên minh những  
					người đề xuất nhiên liệu sinh học, và ba liên minh đối nghịch bao gồm Khả năng kỹ thuật, An  
					toàn lương thực và Bảo tồn rừng. Liên minh Khả năng kỹ thuật nổi lên trong suốt giai đoạn  
					khởi đầu của quá trình hình thành chính sách, trong khi đó các liên minh An ninh lương thực  
					và Bảo tồn rừng kết hợp thành một khối trong suốt giai đoạn thực thi hoạch định chính sách  
					về nhiên liệu sinh học. Phần này sẽ mô tả từng thành viên trong khối bốn liên minh trên, tổng  
					hợp lại việc thương thảo hình thành và thực thi Đạo luật nhiên liệu sinh học, và xác định ảnh  
					hưởng của chúng đến mạng lưới chính sách về nhiên liệu sinh học. Bảng 1 cung cấp khái quát  
					về các liên minh thành viên và các hợp phần trong nội hàm của chúng.  
					7
				Nhóm đề xuất nhiên liệu sinh học  
					Nhóm liên minh đầu tiên đó là những người đề xuất nhiên liệu sinh học, bao gồm tổng thống  
					Philipin, các thành viên Quốc hội (đặc biệt là các tác giả và những thành viên ủng hộ Đạo luật  
					nhiên liệu sinh học), một số các ban ngành quản lý (ví dụ như Cục Năng lượng, Cục Nông  
					nghiệp, và Ban điều hành ngành mía đường), các công ty và hiệp hội hóa dầu, và các hiệp hội  
					nông dân và người trồng cây. Trung tâm của nội hàm là vai trò quan trọng của Đạo luật nhiên  
					liệu trong việc cắt giảm sự lệ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch (an ninh năng lượng), hỗ trợ phát  
					triển nông thôn, cải thiện chất lượng không khí tại các khu đô thị và làm giảm nhẹ biến đổi  
					khí hậu. Mặc dù việc giảm nhẹ biến đổi khí hậu là một trong những động lực chính đối với  
					các chính sách về nhiên liệu sinh học, các thương thảo tập trung nhiều hơn vào việc gia tăng  
					giá dầu mỏ và tình trạng của các thành phần nông thôn.  
					Rất nhiều những thành phần, đặc biệt là các thành viên Quốc hội thường viện dẫn vào sự tăng  
					giá của dầu mỏ như là một lý do cơ bản để theo đuổi Đạo luật nhiên liệu sinh học. Trên thực  
					tế, tất cả chín dự luật liên quan đến nhiên liệu sinh học được đệ trình ở Hạ viện đều đã có  
					những luận cứ trong đó đề cập đến vấn đề an ninh lương thực như là một lý do quan trọng,  
					với chỉ ba trong số đó đề cập đến phát triển nông thôn và một về biến đổi khí hậu. Điều này  
					cũng hiện hữu trong biểu đồ hình 1, trong đó ngày càng nhiều thêm các báo đăng có liên quan  
					chứa đựng nội hàm về các liên minh đề xuất nhiên liệu sinh học tương ứng với sự tăng giá của  
					xăng dầu. Hơn nữa phát triển và tái thiết nông thôn của các thành phần nông nghiệp như là  
					một lý do quan trọng được trích dẫn thường xuyên thứ hai. Các nhà chính sách ưu tú và các  
					hiệp hội về nông nghiệp có liên quan nắm rõ tình trạng ảm đạm của các thành phần nông  
					nghiệp quốc gia. Như những năm 1990, Philipin đã bị đình trệ sau hầu hết các quốc gia láng  
					giềng ở Châu Á trên phương diện sản lượng nông nghiệp và xuất khẩu. Hơn nữa, việc làm  
					trong các thành phần nông nghiệp cũng bị giảm sút (Habito và Briones, 2005) và tỷ lệ nghèo  
					đói tăng đến 46%, cao nhất trong các thành phần chính của quốc gia (Balisacan, 2003).  
					Một hợp phần thiết yếu khác trong thương thảo của liên minh đó là vai trò của các nhà đầu tư  
					công nghiệp nhiên liệu sinh học. Những thành phần liên minh thúc đẩy việc ban hành và thực  
					thi ngay lập tức Đạo luật nhiên liệu sinh học và sự kết hợp của các gói khuyến khích phù hợp  
					như là một điều khoản cần thiết về chính sách. Hai điều kiện này là thiết yếu để khuyến khích  
					dòng đầu tư cần thiết cung cấp vốn cho phát triển các chương trình nhiên liệu sinh học.  
					Bảng 1. Tổng hợp về các liên minh nghị luận, nội hàm và các sản phẩm chính sách đối với  
					mạng lưới chính sách nhiên liệu sinh học  
					Liên  
					minh  
					Đề  
					Thành phần chủ  
					chốt  
					Thành phần nội hàm  
					Đầu ra  
					Tổng  
					thống - Phát triển nhiên liệu sinh học là - Chuẩn y thành công và  
					thành một giải pháp để giảm lệ thuộc vào nhanh chóng Đạo luật  
					xuất Philipin,  
					nhiên viên Quốc hội, các nhiên liệu hóa thạch, hỗ trợ phát nhiên liệu sinh học.  
					liệu ban ngành có liên triển nông thôn, cải thiện chất lượng - Hợp nhất các điều khoản  
					sinh quan trong chính không khí đô thị, làm giảm bớt sự trong Đạo luật Nhiên liệu  
					học  
					phủ, các công ty phát thải khí nhà kính.  
					sinh học và quy định hỗ  
					hóa dầu, liên hiệp - Nhiên liệu sinh học có thể pha trộn trợ.  
					nông dân và người một cách an toàn với nhiên liệu hóa - Chiến dịch để thu hút  
					8
				trồng rừng, hiệp thạch và sử dụng cho các phương các nhà đầu tư. Nỗ lực  
					hội mía đường, tiện cơ giới, nó sẽ không làm tổn làm cho việc trì hoãn  
					các viện nghiên thương đến an ninh lương thực và không thành công  
					cứu cồn, hiệp hội dẫn đến chuyển đổi mục đích sử  
					điezen sinh học dụng đất nếu được thực thi theo một  
					Philipin,  
					thông.  
					truyền cách thức bền vững.  
					- Những đầu tư đóng vai trò quan  
					trọng để đảm bảo cho sự thành công  
					của chương trình. Sự phê chuẩn Đạo  
					luật nhiên liệu sinh học là sống còn  
					để tạo ra môi trường đầu tư thuận  
					lợi. Do đó Đạo luật nhiên liệu sinh  
					học không nên bị trì hoãn.  
					Khả Các công ty chế - Có những vấn đề nghiêm trọng về - Có nhiều thêm các thử  
					năng tạo máy, lái xe, kỹ thuật, hậu cần, và an toàn liên nghiệm được tiến hành để  
					kỹ  
					các công ty xăng quan đến nhiên liệu pha trộn và sử có thể nhận được sự ủng  
					thuật dầu, truyền thông. dụng trong phương tiện, trong đó hộ của các nhà sản xuất  
					yêu cầu trì hoãn việc thực hiện Đạo phương tiện cơ giới đối  
					luật nhiên liệu sinh học và/ hoặc bao với việc pha trộn nhiên  
					gồm các điều khoản bảo vệ trong hệ liệu sinh học.  
					thống pháp chế.  
					- Bao gồm các ngành công  
					- Các điều khoản cần được làm rõ nghiệp tư nhân là nguồn  
					trong các vấn đề liên quan đến bảo lực kỹ thuật và các đại  
					hiểm, bồi thường, và các chi phí cho diện trong Hội đồng Quốc  
					các công ty ô tô và xăng dầu.  
					gia điezen sinh học.  
					An  
					Những người ủng - Sản xuất nhiên liệu sinh học ảnh - Sự trì hoãn đã không trở  
					ninh hộ trong Quốc hội, hưởng trực tiếp đến sản xuất lương thành hiện thực, nhưng Ủy  
					lương các NGO quốc tế thực và giá cả, do đó tác động tiêu ban giám sát đã được  
					thực và địa phương, các cực đến các hộ gia đình.  
					thành lập  
					nhóm cố vấn, các - An ninh lương thực là vấn để đủ - Hợp nhất các điều khoản  
					tổ chức quốc tế, quan trọng để xem xét hoặc trì hoãn an ninh lương thực trong  
					giáo hội, truyền việc thực thi Đạo luật nhiên liệu sinh các quy định của Đạo luật  
					thông.  
					Bảo Những người ủng - Sản xuất nhiên liệu sinh học có thể - Không có các điều khoản  
					tồn hộ trong Quốc hội, quyết định hoặc làm tổn thương đến độc lập trong Đạo luật  
					rừng các NGO quốc tế đa dạng sinh học và đất rừng. nhiên liệu sinh học và các  
					và địa phương, - Yêu cầu bao gồm (a) giới hạn sản quy định hỗ trợ đi kèm.  
					học.  
					nhiên liệu sinh học.  
					truyền thông.  
					xuất nhiên liệu sinh học hay sản  
					xuất theo phương hướng bền vững,  
					hoặc (b) áp đặt sự trì hoãn đối với  
					Đạo luật đa dạng sinh học để chính  
					phủ tập trung vào những nỗ lực  
					khác, chẳng hạn như cắt giảm tiêu  
					thụ nhiên liệu xe cộ.  
					9
				Hình 1. Tần xuất các bài báo theo diễn biến thời gian các sự kiện quan trọng  
					Bao gồm hầu hết các nhà xây dựng chính sách, liên minh đề xuất nhiên liệu sinh học được  
					đưa vào là rất thuyết phục vì nó có thể tạo sức ép lên Hạ viện để xúc tiến việc ban hành dự  
					luật B2226 mà đang có vẻ bị đình trệ. Một ví dụ đáng chú ý, khi công ty lọc dầu ở Philipin là  
					Chemrez Technologies báo cáo với chính phủ rằng họ có thể xuất khẩu sản phẩm của họ nếu  
					nhà máy được mở trước khi luật nhiên liệu sinh học được thông qua (Ho, 2006a). Một ví dụ  
					khác là, Liên hiệp nhiên liệu etanol Philipin lên tiếng về sự chậm trễ thông qua các dự thảo là  
					yếu tố duy nhất làm trì hoãn tiến độ của các dự án nhiên liệu sinh học (Ho, 2006b). Điều này  
					đã thúc đẩy tác giả chính của HB4629 là đại biểu Quốc hội Zubiri gây sức ép đến Hạ viện để  
					10  
				phê chuẩn ngay lập tức Đạo luật nhiên liệu sinh học trước tình hình có ít nhất cả chục nhà đầu  
					tư phải chờ đợi chính sách được thông qua và sẵn sàng bơm vốn vào để xây dựng hạ tầng sản  
					xuất nhiên liệu sinh học. Ông ta tiếp tục “Những người tham gia đang sẵn sàng một khi khung  
					quy định được hình thành” (Tubeza, 2006).  
					Liên minh này đã thành công khi nó đã có thể thông qua đạo luật nhiên liệu sinh học một cách  
					chóng vánh và tích hợp vào các điều khoản khuyến khích trong pháp chế về nhiên liệu sinh  
					học. Các bài báo chứa nội hàm về liên minh đề xuất nhiên liệu sinh học đã nổi lên trong năm  
					2006, và đạt đỉnh điểm ở quý bốn trong cùng năm, chỉ ngay trước khi thông qua Đạo luật  
					nhiên liệu sinh học (Hình 1). Liên minh này duy trì được ảnh hưởng thậm chí trong suốt giai  
					đoạn thực thi Đạo luật nhiên liệu sinh học vì chúng đã có thể đối phó với những yêu cầu trì  
					hoãn việc thực thi chính sách từ những liên minh đối đầu khác.  
					Khả năng kỹ thuật  
					Các liên minh Khả năng kỹ thuật đã phản đối một số mặt của đạo luật nhiên liệu sinh học, dựa  
					trên những tranh cãi về tính an toàn của nhiên liệu sinh học và tính tương thích của nó với các  
					phương tiện và cơ sở hạ tầng. Nó đã có tác dụng trong vòng hai năm trước khi thông qua Đạo  
					luật nhiên liệu sinh học, được chi phối bởi những quan ngại trong việc thực thi sự ủy thác về  
					nhiên liệu. Tương tự như đối với liên minh đề xuất nhiên liệu sinh học, tần xuất của các bài  
					báo liên quan đến nội hàm Khả năng kỹ thuật đạt đỉnh điểm vào quý ba năm 2006. Hợp phần  
					chính của nội hàm liên minh này là sự kháng cự để trì hoãn việc thực thi, làm giảm hiệu lực  
					một số điều khoản nhất định (ví dụ những chậm trễ trong việc thực thi) và những điều kiện  
					khác để làm sáng tỏ những vấn đề về giá cả đối với một số bộ phận các công ty ôtô và xăng  
					dầu (ví dụ như bồi thường, bảo hiểm, các khoản phí bất ưng thuận). Đến nay liên minh này  
					tiếp tục các hoạt động của nó với nhiệm vụ cản trở pha trộn nhiên liệu sinh học ở các tỷ lệ cao  
					hơn. Điều này được minh chứng bởi sự nổi lên một đỉnh cực mới về tần xuất của báo chí ở  
					quý ba năm 2009 (Hình 1), có lẽ là để phản ứng lại những mối quan ngại tiềm ẩn khi sử dụng  
					E5 và E10 trong các máy móc chạy xăng dầu hiện nay.  
					Liên minh Khả năng kỹ thuật có ảnh hưởng nhất định vì chúng có mối quan hệ với việc xây  
					dựng chính sách nhiên liệu sinh học. Ví dụ, Quốc hội đã quy định các điều khoản lập pháp  
					trong Đạo luật nhiên liệu sinh học mà hỗ trợ cho sự chậm trễ của các công ty trong việc nhập  
					khẩu nhiên liệu sinh học khi nguồn cung ứng nhiên liệu sinh học ở địa phương không đáp ứng  
					được (RA9367, mục 5.2). Một vấn đề khác đó là sự hợp nhất yêu cầu của hiệp hội các nhà sản  
					xuất ôtô để cung cấp chỗ cho các thành phần tư nhân trong NBB, như đã được trình bày trong  
					khoản 8 của Đạo luật nhiên liệu sinh học (Domingo, 2006). Bài báo này tập trung đặc biệt vào  
					“rừng, nhiên liệu, hay những tranh cãi về lương thực” do đó liên minh Khả năng kỹ thuật ở  
					đây được xem xét chỉ ở một số nội dung giới hạn.  
					An ninh lương thực  
					Liên minh an ninh lương thực bao gồm một số thành viên của Hạ viện và Thượng viện, các  
					nhóm chuyên gia cố vấn, các tổ chức phi chính phủ địa phương và quốc tế, các tổ chức nhà  
					thờ, và truyền thông. Nội hàm của liên minh này là tập trung vào những tranh cãi trong đó  
					việc phát nhiên liệu sinh học tác động tiêu cực đến sản xuất và giá cả thực phẩm mà rút cuộc  
					11  
				là ảnh hưởng đến phúc lợi của các hộ gia đình. Do đó, những quan ngại về an ninh lương thực  
					lý giải cho những xem xét khẩn cấp về Đạo luật nhiên liệu sinh học và làm trì hoãn quá trình  
					thực thi đạo luật này. Những đòi hỏi mà được đưa ra bởi những thành viên của liên minh này  
					là để áp đặt một sự trì hoãn đối với chương trình nhiên liệu sinh học và xúc tiến việc thành lập  
					Ủy ban giám sát Quốc hội để xem xét các tác động có thể có đối với an ninh lương thực. Số  
					lượng các bài báo liên quan đến an ninh lương thực đạt đỉnh điểm vào quý hai năm 2008, giai  
					đoạn giá gạo tăng khủng khiếp tại Philipin (hình 1).  
					Liên minh này đã bắt đầu ngay khi Thượng viện đưa vào các điều khoản để bảo vệ nguồn  
					cung cấp đường sản xuất bởi các nhà máy ép đường địa phương. Điều này ngay lập tức bị  
					thách thức bởi dân biểu Zubiri khi ông phản đối rằng điều khoản như vậy sẽ chỉ bảo vệ các  
					nhà máy ép đường chứ không phải bảo vệ cho nông dân (Burgonio, 2006). Cao trào của vấn  
					đề an ninh lương thực bắt đầu khoảng một năm sau khi thông qua Đạo luật nhiên liệu sinh  
					học. Tại thời điểm đó, Phó lãnh đạo cao cấp nhóm thiểu số của Hạ viện là nghị sỹ Golez đã đệ  
					trình một giải pháp để thực hiện cuộc điều tra về chương trình nhiên liệu sinh học lúc bấy giờ  
					và xem xét tác động của nó đến an ninh năng lượng, sự nóng lên toàn cầu, và an ninh lương  
					thực (Hạ viện, 2007). Giải pháp này chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi báo cáo của Ts. Jean  
					Ziegler – báo cáo viên đặc biệt của Liên Hợp Quốc về quyền đối với thực phẩm tháng 8 năm  
					2007, kêu gọi các quốc gia thiết lập một thời gian tạm hoãn 5 năm đối với tất cả các hoạt động  
					nhằm phát triển nhiên liệu sinh học dựa vào cây trồng lương thực (Đại Hội đồng Liên Hợp  
					Quốc, 2007).  
					Về việc áp đặt một sự trì hoãn đối với chương trình nhiên liệu sinh học, tháng 5 năm 2008,  
					nghị sỹ thượng viện Rodolfo Biazon đã đệ trình Liên nghị quyết thượng viện số 11 yêu cầu  
					đình chỉ việc thực thi RA9367 cho đến khi quốc gia được đảm bảo có đủ nguồn lực và khả  
					năng để cung cấp đầy đủ lương thực, đặc biệt có khả năng tự cung tự cấp gạo. Ông này cũng  
					đã nhấn mạnh thêm trong các phiên họp Quốc hội rằng “Tôi đã bỏ phiếu cho việc ban hành  
					Luật nhiên liệu sinh học, nhưng đó là trước khi có những mối quan ngại về an ninh lương  
					thực hiện nay trên thế giới, và đặc biệt là đối với chúng ta – những người Philipin”. Ông này  
					tiếp tục:  
					Ts. Ziegler đang nói rằng chúng ta thiếu đất đai. Như thực tế diễn ra, những nhận xét  
					của Ts. Ziegler [đã] là nguyên nhân tại sao tôi cân nhắc việc đệ trình giải pháp kết hợp  
					đồng thời. Tôi là vì nhiên liệu sinh học nhưng những gì tôi đang yêu cầu chỉ là để đình  
					chỉ việc thực thi cho đến khi chúng ta có thể đảm bảo khả năng tự cung tự cấp  
					(Thượng nghị sỹ Rodolfo Biazon, tại Thượng viện Philippine, 2008a).  
					Việc minh chứng cho bản chất động của các liên minh nghị luận, một điều thú vị là một số  
					thành viên của liên minh đề xuất nhiên liệu sinh học đã nghiêng về phía liên minh an ninh  
					lương thực, trong đó có các nhà bảo trợ Thượng viện của Đạo luật nhiên liệu sinh học, thượng  
					nghị sỹ Miriam Defensor-Santiago. Mặc dù có một số thành viên của Quốc hội đồng tình với  
					việc trì hoãn, liên minh an ninh lương thực vẫn không thành công trong việc thông qua Liên  
					nghị quyết thượng viện số 11. Các thành viên của liên minh an ninh lương thực đã biện luận  
					rằng giá lương thực vốn đã phức tạp để nắm bắt và có thể có những nguyên nhân khác mà  
					điều khiển giá lương thực tăng lên ngoài nhiên liệu sinh học. Họ biện luận thêm rằng có  
					12  
				Hình 2. Tần xuất các bài báo được xem xét theo các mục trong báo (nguồn: tác giả)  
					Mặc dù sự trì hoãn đối với Đạo luật nhiên liệu sinh học đã không trở thành hiện thực, tầm  
					quan trọng vượt trội của lương thực so với nhiên liệu đã gây được chú ý của hầu hết các nhà  
					xây dựng chính sách và công chúng nói chung. Hình 2 chỉ ra rằng tần xuất của phân bố của  
					các bài báo có liên quan theo các mục trong báo. Đỉnh điểm của các bài báo trong các tạp chí  
					và mục dư luận là vào năm 2008, năm khi mà cuộc tranh cãi “lương thực” và “nhiên liệu” nổ  
					ra. Điều này cho thấy vấn đề an ninh lương thực được thống nhất cao trong giới truyền thông  
					và công chúng (và cũng như là giữa các nhà xây dựng chính sách kể từ khi các tạp chí tường  
					thuật lại các hoạt động trong chính trường của các nhà xây dựng chính sách).  
					Bảo tồn rừng  
					Liên minh bảo tồn rừng là yếu nhất trong số bốn liên minh. Không giống như những liên  
					minh khác, liên minh này thiếu sự hỗ trợ từ phía các nhà xây dựng chính sách có tầm ảnh  
					hưởng và dựa chủ yếu vào những người ủng hộ và truyền thông. Như biểu diễn trong hình 1,  
					bảo tồn rừng rất ít được đề cập đến trong báo chí. Vấn đề này cũng được nhắc đến rất hiếm  
					hoi ở các ban ngành và cơ quan của chính phủ.  
					Những tranh cãi trong suốt quá trình thực thi Đạo luật đa dạng sinh học tập trung vào vấn đề  
					lương thực thậm chí là khi những nghiên cứu hàn lâm và các báo cáo truyền thông được công  
					bố chỉ ra minh chứng về suy thoái rừng tại các địa phương nơi khác có chương trình nhiên  
					liệu sinh học chẳng hạn như ở Indonesia (Koh & Wilcove, 2008) và Brazil (Grunwald, 2008).  
					Một điều thú vị là thậm chí những nhận xét không có lợi của Ts. Hartmut Michel người đạt  
					13  
				giải Nobel liên quan đến chính sách nhiên liệu sinh học ở Philipin hạn chế khuyến khích  
					những biên bản trong vấn đề lương thực và nhiên liệu. Những quan ngại của Ts. Michel về lợi  
					nhuận dòng thấp về năng lượng đối với nhiên liệu sinh học và nguy cơ tiềm ẩn của nó đối với  
					việc phá rừng và bảo tồn sử dụng đất bị phá hủy là rất rõ ràng trong suốt chuyến thanh tra của  
					ông (Burgonio, 2008). Vấn đề này bằng cách này hay cách khác đã đến được với Thượng viện  
					vào tháng 1 năm 2008 khi thượng nghị sỹ Defensor-Santiago lặp lại những quan ngại của Ts.  
					Michel. Thậm chí sau đó, phân tích những bản thảo của Thượng viện còn hé lộ một sự tập  
					trung mất cân đối về phát triển kinh tế, an ninh năng lượng và an ninh lương thực trong các  
					cuộc tranh luận và ít hơn về bảo tồn rừng. Ví dụ, trong số 10 mục mà diễn ra ngay lập tức sau  
					khi chuẩn y Đạo luật nhiên liệu sinh học, 9 biên bản mở rộng là về an ninh lương thực trong  
					khi đó chỉ có 2 thảo luận vắn tắt về bảo tồn rừng.  
					Một xu hướng đang nổi lên đó là phát triển nhiên liệu sinh học sẽ dẫn đến phá rừng làm dấy  
					lên nghi ngờ về chính sách nhiên liệu sinh học của Philipin. Những yêu cầu bao gồm cả việc  
					giới hạn sản xuất đến các phương thức bền vững, áp đặt sự trì hoãn đối với việc thực thi Đạo  
					luật nhiên liệu sinh học, và như đề xuất của một NGO địa phương, một thay đổi trong nỗ lực  
					hướng đến việc cắt giảm tiêu thụ nhiên liệu động cơ.  
					Những hoạt động ảm đạm của liên minh bảo tồn rừng được phản ánh trong pháp chế nhiên  
					liệu sinh học. Sự dính dáng đến những quan ngại về suy thoái rừng do chuyển đổi sử dụng đất  
					trong Đạo luật nhiên liệu sinh học và các IRR tương ứng chỉ được quy định trong mục 2  
					(công bố chính sách và các mục tiêu): “đảm bảo sự sẵn có của năng lượng thay thế và tái tạo  
					được mà không làm phương hại đến hệ sinh thái tự nhiên, đa dạng sinh học và dự trữ lương  
					thực của quốc gia”. Cũng có một số sự liên hệ không trực tiếp khác trong JAO 2008-01,  
					chẳng hạn như mục 2 trong chương 2 về giấy chứng nhận tuân thủ môi trường và mục 3 về sự  
					chấp thuận ưu tiên và được thông báo đối với việc sử dụng các lãnh địa thừa kế. Tuy nhiên,  
					chúng không được phác họa một cách rõ nét nếu so sánh với quan ngại về an ninh lương thực.  
					Hơn nữa, tương ứng với các đạo luật khác liên quan đến môi trường và phát triển, Đạo luật  
					nhiên liệu sinh học có mối liên hệ rất yếu đối với bảo tồn rừng. Thậm chí chẳng hạn như Đạo  
					luật khai khoáng gây tranh cãi của Philipin năm 1995 (RA7942) có toàn bộ một đoạn trong  
					mục 19 quy định chi tiết về các khu vực đa dạng sinh học mà cấm khai thác. Nó cũng có sự  
					liên quan đến Đạo luật năm 1992 về Hệ thống khu bảo tồn tổng hợp quốc gia (NIPAS) trong  
					đó xác định các khu vực được bảo vệ tránh các hoạt động phát triển. Một ví dụ khác đó là Đạo  
					luật năm 1997 về hiện đại hóa nông nghiệp và thủy sản (RA8435) mà trong đó ở mục 11 và  
					12 quy định về bảo tồn các lưu vực, đa dạng sinh học, và nguồn gen.  
					Đặc điểm nổi bật của các vấn đề và các liên minh  
					Phân tích nội dung các bài báo trên tạp chí và các văn bản của chính phủ chỉ ra rằng các vấn  
					đề về an ninh năng lượng, phát triển nông thôn, tính khả thi về kỹ thuật, và an ninh lương thực  
					được chấp thuận với đặc điểm nổi bật cao về chính trị. Cả liên minh đề xuất nhiên liệu sinh  
					học và liên minh tính khả thi kỹ thuật đã thành công trong việc tạo ảnh hưởng về chính sách,  
					đặc biệt là bản thân Đạo luật nhiên liệu sinh học. Sau này là sự nổi lên của liên minh an ninh  
					lương thực, sau khi thông qua Đạo luật nhiên liệu sinh học, nhưng cũng đã thành công nhanh  
					chóng trong việc tạo được sự ủng hộ của các nhà xây dựng chính sách. Hơn nữa, nó vẫn có  
					14  
				thể ảnh hưởng đến việc đưa vào những điều khoản an ninh lương thực rõ ràng trong JAO  
					2008-1.  
					Một chủ đề phổ biến gắn với hiệu lực của những liên minh đề xuất nhiên liệu sinh học, tính  
					khả thi về kỹ thuật, và an ninh lương thực: lợi ích kinh tế. Liên minh những nhà đề xuất nhiên  
					liệu sinh học luôn nhấn mạnh rằng cả an ninh năng lượng và phát triển nông thôn đều liên  
					quan đến phát triển kinh tế. An ninh năng lượng được xem như là cách thức để đạt được sự  
					cân bằng thương mại thông qua việc cắt giảm nhập khẩu dầu thô, trong khi đó phát triển nông  
					thôn được gắn với phục hồi nông nghiệp, tăng tính canh của các sản phẩm nông nghiệp và tạo  
					công ăn việc làm ở nông thôn. Mặt khác liên minh về tính khả thi kỹ thuật có lợi nhuận kinh  
					tế cao được minh chứng bởi lợi nhuận của chúng về giá cả gắn kèm với sự tuân thủ về kỹ  
					thuật và an toàn. Cuối cùng, an ninh lương thực được liên kết rất nhiều đến sự tăng giá về các  
					mặt hàng lương thực tác động tiềm tàng của nó đến thu nhập của các hộ gia đình.  
					Ngược lại, liên minh bảo tồn rừng vẫn giữ nguyên sự yếu kém trong mạng lưới chính sách  
					nhiên liệu sinh học. Sự yếu kém của liên minh bảo tồn rừng là do biểu hiện tương đối không  
					rõ ràng của các vấn đề kinh tế xã hội liên quan đến việc suy giảm đa dạng sinh học. Nạn phá  
					rừng và suy giảm đa dạng sinh học không gây ra những biểu hiện tức thì đối với các vấn đề  
					kinh tế xã hội, ít nhất là đối với các thành phần kinh tế xã hội ngoài các vùng núi. Đây là một  
					vấn đề mà có lẽ là trừu tượng trong nhận thức của người dân Philippin vùng đồng bằng, nơi  
					không có tác động trực tiếp và ngay lập tức đến thu nhập và những nhu cầu cơ bản của họ.  
					Ngược lại, sự gia tăng đáng kể trong giá gạo có thể cảm nhận rất rõ ràng trong các nhà xây  
					dựng chính sách và công chúng nói chung. Do đó, khá đơn giản để kết nối các vấn đề an ninh  
					lương thực được đưa ra bởi các chuyên gia bên ngoài với những thách thức kinh tế xã hội  
					đang diễn ra trong nước.  
					Mặc dù người dân vùng cao trải qua các tác động kinh tế xã hội trực tiếp, những lo ngại của  
					họ có thể không đến mức nghị luận cấp quốc gia do sự vận động yếu kém của họ. Cộng đồng  
					vùng cao, đặc biệt là những người trực tiếp liên quan đến những tác động kinh tế xã hội và  
					môi trường của nạn phá rừng, không còn được mạnh mẽ như trong những năm trước. Trong  
					cuối những năm 1980, các cộng đồng vùng cao đã là những thành phần chủ chốt trong việc  
					thúc đẩy chuyển giao quyền lực và quản lý rừng địa phương ở Philippines. Họ đã được hỗ trợ  
					và huy động các nguồn dự trữ được cung cấp bởi các nhà tài trợ và các tổ chức tài trợ đa  
					phương. Không còn nhận được sự hỗ trợ của nhà tài trợ nhất kể từ năm 2000, các cộng đồng  
					vùng cao đã đóng vai trò ít đi rất nhiều trong các cuộc tranh luận chính sách quốc gia (Pulhin  
					và Inoue, 2008). Thật vậy, các nghiên cứu hiện nay cho thấy liên minh Bảo tồn rừng không  
					bao gồm các tổ chức đại diện cộng đồng vùng cao. Nếu các tổ chức này đã tiếp tục hoạt động  
					và phục vụ, họ có thể đã tham gia phát triển nghị luận nhiên liệu sinh học và làm cho những  
					lo ngại của họ gây được sự chú ý của các nhà xây dựng chính sách. Một sự giải thích khác cho  
					việc yếu kém của liên minh Bảo tồn rừng là đặc tính mâu thuẫn của nhiên liệu sinh học liên  
					quan đến các tác động môi trường. Nhận thức về vai trò của nhiên liệu sinh học như là một  
					giải pháp tiềm năng cho vấn đề biến đổi khí hậu toàn cầu thực tại có thể làm mờ nhạt hình ảnh  
					của nhiên liệu sinh học như là một yếu tố góp phần vào phá rừng.  
					15  
				Việc sử dụng các hệ thống năng lượng thay thế và tái tạo, chẳng hạn như nhiên liệu sinh học,  
					đã trở thành một sự thúc đẩy cho chính sách chính thống để hạn chế phát thải khí nhà kính  
					(Charles, Ryan, Ryan, & Oloruntoba, 2007, p. 5739). Tuy nhiên, những thành phần chính  
					sách và các liên minh có thể bị giằng xé giữa hai hình ảnh: nhiên liệu sinh học như một chiến  
					lược giảm nhẹ biến đổi khí hậu và nhiên liệu sinh học là nguyên nhân của nạn phá rừng.  
					Ví dụ, Greenpeace Philipin thể hiện mối quan ngại về các tác động liên quan đến sử dụng đất,  
					nhưng dù sao tổ chức này cũng hỗ trợ việc sử dụng nhiên liệu sinh học miễn là nó "[không]  
					dẫn đến việc phá hủy các hệ sinh thái còn nguyên vẹn"(Adraneda, 2007). Những lợi ích môi  
					trường của việc giảm các khí nhà kính và thay thế nhiên liệu hóa thạch làm việc lên án nhiên  
					liệu sinh học gây ra nạn phá rừng càng trở nên khó khăn hơn. Nhiều thành phần chính sách,  
					ngay cả những người vận động bảo tồn mạnh mẽ, vẫn còn tin vào những cam kết về sự bền  
					vững của nhiên liệu sinh học. Ngay cả hiện nay có những nghiên cứu đang đặt câu hỏi về khả  
					năng giảm bớt khí thải nhà kính của các chương trình nhiên liệu sinh học khi chuyển đổi sử  
					dụng đất (Fargione và nnk, 2008;.. Searchinger và nnk, 2008), những thành phần chính sách ở  
					Philipin vẫn chưa đưa điều này vào nghị luận của họ. Một tình huống có thể làm trầm trọng  
					thêm xung đột này đó là, khi các nhà xây dựng chính sách không còn cho là sự suy giảm đa  
					dạng sinh học xứng đáng nhận được sự quan tâm cao do tình trạng ảm đạm của đất lâm  
					nghiệp còn sót lại. Trong một phiên họp Quốc hội thảo luận về các vấn đề về rừng, nhiên liệu  
					và thực phẩm, tác giả chính của Luật Nhiên liệu sinh học đã phát biểu:  
					Tôi biết rằng nó đang là vấn đề nghi vấn ở châu Âu và ở Hoa Kỳ, nhưng chúng ta phải  
					cho [nhiên liệu sinh học] một cơ hội ở Philippines. Không may là chúng ta không có  
					nhiều rừng hơn nữa để phá. Chúng ta chỉ có 5% còn lại. Vì vậy, chúng ta chắc chắn sẽ  
					không phá rừng của chúng ta cho sản xuất nhiên liệu sinh học (Thượng viện  
					Philippines, 2008b).  
					Ở đây, tác giả giả định rằng có ít hơn 5% diện tích rừng chính là lý do đủ để ngăn cản chương  
					trình phát triển lấn thêm vào phần rừng nguyên sinh còn lại của cả nước. Nếu các nhà xây  
					dựng chính sách khác chia sẻ lập luận tương tự, thì giả định như vậy là đủ để cản trở bất kỳ  
					cuộc tranh luận về rừng so với nhiên liệu. Tuy nhiên, tầm quan trọng của vấn đề suy thoái  
					rừng không phải chỉ đối với rừng nguyên sinh. Sự nhấn mạnh của các nhà xây dựng chính  
					sách về tình trạng của rừng nguyên sinh làm giảm bớt vai trò của rừng thứ sinh. Rừng thứ sinh  
					chiếm một tỷ lệ đáng kể (83%) của toàn bộ diện tích rừng ở Philippines và nó đã trở nên dễ  
					tổn thương khi có thể bị chuyển đổi hoặc suy thoái do sự gần gũi với cộng đồng địa phương  
					(Lasco, Visco, & Pulhin, 2001). Loại rừng này cũng đáng được bảo tồn do nó cũng có thể đạt  
					được mực độ đa dạng giống như rừng nguyên sinh ở Đông Nam Á (Luna và nnk, 1999). Làm  
					như vậy có thể thay đổi nhận thức của các nhà xây dựng chính sách trong liên minh nghị luận  
					về tầm quan trọng tương đối của nhiên liệu sinh học rừng vis-à-vis.  
					Diễn biến trên chính trường, ví dụ, trong cuộc bầu cử sắp tới quốc gia, có thể tạo cơ hội cho  
					những thay đổi về sự năng động của các liên minh và sự nổi bật tương đối của vấn đề xung  
					quanh phát triển nhiên liệu sinh học. Những thay đổi trong liên minh cầm quyền, thông qua  
					bầu cử của quan chức mới, có thể cho phép các liên minh trước đây để đạt được nhiều vị trí  
					hơn nữa. Sửa đổi trong các chính sách nhiên liệu sinh học sẽ cần phải có những thay đổi trong  
					16  
				những người ủng hộ ban đầu mà đề xuất Đạo luật nhiên liệu sinh học hoặc những thay đổi  
					như áp đặt bởi một cấp trên nhiều thẩm quyền hơn. Nếu Hạ viện và Thượng viện thu hút thêm  
					nhiều thành viên chia sẻ với các liên minh bảo tồn rừng thì sẽ tiếp thêm sinh khí cho vấn đề  
					bảo tồn rừng so với vấn đề nhiên liệu. Ngoài ra, một chi nhánh điều hành mới, thông qua  
					việc bổ nhiệm nội các, có thể áp đặt thay đổi đối với IRR của Đạo luật nhiên liệu sinh học.  
					Không có một sự thay đổi đáng kể trong thành phần của Đại hội 15, đặc biệt là ở Thượng  
					viện. Tuy nhiên, chủ tịch mới được bầu của Ủy ban giám sát nhiên liệu sinh học đó  
					là Thượng nghị sĩ Sergio Osmeña III thay thế cho Thượng nghị sĩ Defensor-Santiago, một  
					trong số ít nhà xây dựng chính sách thuộc về cả liên minh an ninh lương thực và liên  
					minh bảo tồn rừng. Trong suốt nhiệm kỳ của mình, thượng nghị sĩ Defensor-Santiago đã xác  
					định được nạn phá rừng nhiệt đới và chuyển đổi đất tàn phá là những nguy cơ tiềm năng sản  
					xuất nhiên liệu sinh học không kiểm soát được (Defensor-Santiago, 2008). Thượng nghị  
					sĩ Osmeña là một trong những người ủng hộ dự luật nhiên liệu sinh học tại Thượng viện, mặc  
					dù không chắc chắn ông có quay lại ủng hộ Đạo luật nhiên liệu sinh học hay không khi  
					các vấn đề lương thực đang nổi lên trên so với các vấn đề nhiên liệu và nếu ông nắm giữ vị trí  
					tương tự Thượng nghị sĩ Defensor-Santiago. Trong trường hợp này, chỉ có thời gian sẽ trả lời  
					liệu Uỷ ban giám sát nhiên liệu sinh học có thể thực sự tăng cường nghị luận về bảo tồn rừng.  
					Trong các cơ quan hành pháp, có những thay đổi quan trọng trong nội các và Tổng thống vừa  
					được bầu của Philippines, Benigno AquinoIII, được hỗ trợ của các chính sách đó có khả năng  
					ảnh hưởng đến những cuộc thảo luận về những tác động sử dụng đất của các chương trình  
					nhiên liệu sinh học. Trong bài diễn văn đầu tiên của ông vào tháng 7 năm 2010, Tổng thống  
					Aquino kêu gọi Quốc hội thứ 15 xem xét lại Đạo luật sử dụng đất đất đã gây tranh cãi trong  
					thời gian dài (Văn phòng Tổng thống, 2010). Điều này đã được coi là một giải pháp cho các  
					chính sách sử dụng đất có vấn đề của đất nước (Caringal & Carandang, 2005). Hiện nay, các  
					chính sách, pháp luật liên quan đến sử dụng đất và quyền sở hữu không rõ ràng, không phù  
					hợp, và thường chồng chéo, mâu thuẫn với nhau. Hơn nữa, sự thi hành của các chính sách  
					mâu thuẫn này là không đầy đủ, không hiệu quả, và bị phân mảnh (Llanto & Ballesteros,  
					2003).  
					Đạo luật sử dụng đất quốc gia được đề xuất nhằm mục đích giải quyết mâu thuẫn bằng việc  
					xây dựng một khung quy định chặt chẽ cho việc hoạch định và quản lý tài nguyên đất đai ở  
					cấp quốc gia và các cấp tiểu vùng (Hạ Viện, 2005). Sự phục hồi của Đạo luật sử dụng đất  
					quốc gia có thể kích thích các tranh luận về các tác động của chính sách hiện thời, đặc biệt là  
					Đạo luật nhiên liệu sinh học, đến rừng và bảo tồn đa dạng sinh học. Liên minh bảo tồn rừng  
					của mạng lưới chính sách nhiên liệu sinh học có thể là đòn bẩy cho những thương thảo bị ảnh  
					hưởng bởi sự mở rộng ủng hộ đối với Đạo luật đất đai quốc gia.  
					Lãnh đạo đóng một vai trò quan trọng trong mạng lưới chính sách nhiên liệu sinh học. Một  
					trong những mặt mạnh của liên minh Những người ủng hộ nhiên liệu sinh học là có sự tham  
					gia của Tổng thống Gloria Macapagal-Arroyo. Bà đã có ảnh hưởng lớn trong sự thành công  
					của liên minh này, được minh chứng bằng những nỗ lực của ngành hành pháp để làm cho  
					nhiên liệu sinh học nổi bật hơn trên phương diện chính trị và phơi bày trước công chúng. Sự  
					17  
				thực thi sau đó có thể tạo cơ hội để tái tạo động lực cho liên minh lép vế, hoặc thậm chí thành  
					lập các liên minh nghị luận mới.  
					Kết luận và khuyến nghị về chính sách  
					Nghiên cứu này cho thấy ảnh hưởng của các liên minh nghị luận về hoạch định chính sách  
					nhiên liệu sinh học ở Philippines trong thập kỷ đầu tiên của thiên niên kỷ thứ ba. Ba liên minh  
					(Những người ủng hộ nhiên liệu sinh học, khả năng của kỹ thuật, và an ninh lương thực) đã  
					thành công trong việc duy trì vị thế chính trị nổi bật đối với lợi ích tương ứng của chúng. Thời  
					gian xuất hiện của các nghị luận và sự trỗi dạy của liên minh là mấu chốt cho sự hình thành  
					của một số điều khoản quan trọng trong hệ thống pháp luật và IRR. Ngược lại, liên minh Bảo  
					tồn rừng đã mất tầm ảnh hưởng đến việc hoạch định chính sách nhiên liệu sinh học với hai lý  
					do chính. Trước tiên, bảo tồn rừng thiếu mối liên quan kinh tế xã hội tức thời trong thế giới  
					quan của các nhà xây dựng chính sách và công chúng nói chung, đặc biệt là giữa các cư dân  
					đồng bằng. Mặc dù các cộng đồng vùng cao có thể liên quan đến những tác động kinh tế xã  
					hội và môi trường của nạn phá rừng do sản xuất nhiên liệu sinh học, họ có thể thiếu năng lực  
					hoặc sự năng động để chuyển vấn đề đó đến với các nhà xây dựng chính sách. Thứ hai, các  
					đặc điểm xung đột môi trường của vấn đề nhiên liệu sinh học làm cho việc quy kết đối với  
					nhiên liệu sinh học khó khăn hơn rất nhiều. Các nhà xây dựng chính sách, đặc biệt là những  
					người thuộc liên minh ủng hộ nhiên liệu sinh học, hứa hẹn về tính bền vững của nhiên liệu  
					sinh học để tiếp tục biện minh cho các chính sách nhiên liệu sinh học của đất nước. Trong khi  
					họ dành sự hy vọng của mình vào tính bền vững của nhiên liệu sinh học, các nhà xây dựng  
					chính sách nhà nước viện vào tình trạng ảm đạm của việc sử dụng đất rừng để biện minh cho  
					việc ít quan tâm đến vấn đề bảo tồn.  
					Chính sách nhiên liệu sinh học Philippines là một trường hợp điển hình mà các nước đang  
					phát triển phải đối mặt với lựa chọn khó khăn đó là "rừng, thực phẩm, hay nhiên liệu". Vấn đề  
					này có thể bao gồm các nước ở châu Á (ví dụ, Indonesia, Thái Lan, và Ấn Độ) và các quốc  
					gia ở châu Mỹ Latinh và châu Phi, trong đó nhiều quốc gia hiện nay đang phát triển các đạo  
					luật nhiên liệu sinh học riêng. Trường hợp Philippin giúp nâng cao nhận thức làm thế nào để  
					duy trì và tăng cường sự nổi bật trên phương diện chính trị của bảo tồn rừng trong các tranh  
					luận về lương thực và nhiên liệu (hoặc bất kỳ cuộc tranh luận liên quan đến bảo tồn rừng).  
					Các khuyến nghị đối với chính sách môi trường làm bao gồm:  
					• Năng lực chính trị của các cộng đồng vùng cao: năng lực tổ chức địa phương là cần  
					thiết để cho phép các cộng đồng vùng cao để huy động nguồn lực và đàm phán về các  
					vấn đề liên quan đến việc bảo vệ sinh kế và môi trường của họ. Điều này giúp họ đem  
					những quan ngại về các tác động kinh tế xã hội và môi trường do nạn phá rừng đến  
					với các nhà xây dựng chính sách.  
					• Vai trò của rừng thứ sinh: Cần thiết phải tuyên truyền rằng vai trò của rừng thứ sinh  
					rất quan và nó quan trọng tương đương với việc bảo tồn rừng nguyên sinh. Có như vậy  
					mới có thể thay đổi nhận thức của các nhà xây dựng chính sách trong liên minh nghị  
					luận chiếm ưu thế về tầm quan trọng kinh tế và sinh thái của việc bảo tồn và phát triển  
					rừng vis-à-vis vùng cao.  
					18  
				• Các chính sách hỗ trợ nổi bật cho bảo tồn rừng: Có thể có những cơ hội nơi mà các  
					liên minh khác với những quyền lợi chúng về bảo tồn rừng trở nên nổi bật về phương  
					diện chính trị trong các chính sách được hậu thuẫn bởi những nhà lãnh đạo tương lai.  
					Những điều này thể hiện những cơ hội quan trọng để thúc đẩy các cuộc thảo luận tiếp  
					theo trong mạng lưới chính sách đang nổi lên và mang vấn đề bảo tồn rừng đến các  
					bàn thảo luận.  
					Tuyên bố tác quyền  
					Các tác giả tuyên bố không có mâu thuẫn tác quyền đối với bài viết này.  
					Kinh phí  
					Các tác giả không nhận được hỗ trợ tài chính cho việc nghiên cứu và tác quyền của bài viết  
					này.  
					Ghi chú  
					1. 4A Media Factbook, được trích dẫn trong Dayag (2008).  
					2. Các tổ chức về nhiên liệu etanol Philippine là quan hệ đối tác giữa các thành phần tư nhân  
					và công cộng, trong đó bao gồm Ban điều tiết đường, Hiệp hội Mía đường Philipin, Quỹ  
					hoạch định đường, Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển rượu, và Tổng công ty dầu khí  
					Philippine.  
					Tài liệu tham khảo  
					Adraneda, K. (2007, January 19). Greenpeace backs use of biofuels, but warns of “land use  
					implications.” The Philippine Star, p. 13.  
					Armas, A., & Cryde, D. (1984). Economic evaluation of the Philippine alcogas and cocodiesel  
					programs (Monograph Series No. 3. Philippine Institute for Development Studies).  
					
					ASEAN Forecast. (1981). Philippines—11 major industrial projects: An update. ASEAN  
					Forecast, 36, 145-160.  
					Balisacan, A. M. (2003). Poverty and inequality. In A. M. Balisacan & H. Hill (Eds.), The  
					Philippine economy: Development, policies, and challenges (pp. 311-341). Quezon City,  
					Philippines: Ateneo de Manila University.  
					Boddiger, D. (2007). Boosting biofuel crops could threaten food security. Lancet, 370, 923-  
					24.  
					Bulkeley, H. (2000). Liên minh nghị luậns and the Australian climate change policy network.  
					Environment and Planning C: Government and Policy, 18, 727-748.  
					Burgonio, T. (2008, January 14). Rethink biofuel, says Nobel laureate. The Philippine Daily  
					Inquirer, p. 1.  
					Burgonio,T.J. (2006, November 20). Solon protests Senate version of biofuels bill. Philippine  
					Daily Inquirer. Retrieved from http://newsinfo.inquirer.net/breakingnews/nation/view/  
					20061120‐33790/Solon_protests_Senate_version_of_biofuels_bill.  
					Download  
					từ  
					jed.sagepub.com tại New School Digital Library on February 25, 2011. Montefrio và  
					Sonnenfeld 21.  
					19  
				Caringal, H., & Carandang, F. (2005, October). Requisites of a land use policy (PI-05-05).  
					
					ph/publications/PI%202005-09%20-  
					%20Requisites%20of%20a%20Land%20Use%20Policy.pdf  
					Charles, M. B., Ryan, R., Ryan, N., & Oloruntoba, R. (2007). Public policy and biofuels: The  
					way forward? Energy Policy, 35, 5737-5746.  
					Corpuz, P. G. (2007). Philippines biofuels annual 2007 (USDA Grain Report RP7029).  
					
					Danielsen, F., Beukema, H., Burgess, N., Parish, F., Brühl, C., Donald, P., . . . Fitzherbert, E.  
					B. (2008). Biofuel plantations on forested lands: Double jeopardy for biodiversity and  
					climate. Conservation Biology, 23, 348-358.  
					Dayag, D. (2008). English-language media in the Philippines: Description and research. In M.  
					L. Bautista & K. Bolton (Eds.), Asian Englishes today. Philippine English: Linguistic and  
					literary perspectives (pp. 201-218). Hong Kong, People’s Republic of China: Hong Kong  
					University.  
					Defensor-Santiago, M. (2008, January 17). Miriam: Unchecked biofuels harm environment.  
					Retrieved  
					from  
					
					unchecked.html Domingo, R. (2006, August 23). CAMPI wants to be part of biofuels  
					panel. Philippine Daily Inquirer, p. 12.  
					Fargione, J., Hill, J., Tilman, D., Polasky, S., & Hawthorne, P. (2008). Land clearing and the  
					biofuel carbon debt. Science, 319, 1235-1238.  
					Grunwald, M. (2008, April 7). The clean energy scam. Time Magazine, pp. 28-33.  
					Habito, C., & Briones, R. (2005, June 27). Philippine agriculture over the years: Performance,  
					policies and pitfalls. Paper presented at the Policies to Strengthen Productivity in the  
					Philippines. Philippine Institute of Development Studies and the World Bank, Makati City,  
					Philippines.  
					Retrieved  
					from  
					
					Hajer, M. (1995). The politics of environmental nghị luận: Ecological modernization and the  
					policy process. Oxford, UK: Clarendon Press.  
					Ho, A. (2006a, April 17). Upgraded biofuel plant set to open. Philippine Daily Inquirer, p. 12.  
					Ho, A. (2006b, March 21). Ethanol deals hanging in the balance. Philippine Daily Inquirer, p.  
					8.  
					Ho, A. (2008, May 3). Philippine biofuels law a model for other countries. Philippine Daily  
					Inquirer, p. 4.  
					House of Representatives. (2005). Joint committee approves national land use bill (House of  
					Representatives, 13th Congress of the Philippines. Vol. 13, No. 59). Quezon City,  
					Philippines:  
					Author.  
					Retrieved  
					from  
					
					House of Representatives. (2007). Journal No. 48 (14th Congress of the Philippines). Quezon  
					City, Philippines: Author.  
					Jenkins-Smith, H., & Sabatier, P. (1994). Evaluating the advocacy coalition framework.  
					Journal of Public Policy, 14, 175-203.  
					Jordan, A., & Greenaway, J. (1998). Shifting agendas, changing regulatory structures and the  
					new politics of environmental pollution: British coastal water policy, 1955-1995. Public  
					Administration, 76, 669-694. Downloaded from jed.sagepub.com at New School Digital  
					Library on February 25, 2011.  
					20  
				Jull, C., Redondo, P. C., Mosoti, V., &Vapnek, J. (2007). Recent trends in the law and policy  
					of bioenergy production, promotion and use. Rome, Italy: Food and Agriculture  
					Organization. 22 Journal of Environment & Development XX(X)  
					Kinney, N. (2006). Engaging in “loose talk”: Analyzing salience in nghị luận from the  
					formulation of welfare policy. Policy Sciences, 38, 251-268.  
					Koh, L. P., &Wilcove, D. S. (2008). Is oil pal agriculture really destroying tropical  
					biodiversity? Conservation Letters, 1, 60-64.  
					Lasco, R. D.,Visco, R. G., & Pulhin, J. M. (2001). Secondary forests in the Philippines:  
					Formation and transformation in the 20th century. Journal of Tropical Forest Science, 13,  
					652-670.  
					Llanto, G., & Ballesteros, M. (2003). Land issues in poverty reduction strategies and the  
					development agenda: Philippines (Discussion paper series no. 2003-2003). Makati City:  
					Philippine Institute for Development Studies.  
					Luna, A. C., Osumi, K., Gascon, A. F., Lasco, R. D., Palijon, A. M., & Castillo, M. L. (1999).  
					The community structure of a logged-over tropical rain forest in Mt. Makiling Forest  
					Reserve, Philippines. Journal of Tropical Forest Science, 11, 446-458.  
					Malik, U., Ahmed, M., Sombilla, M., & Cueno, S. (2009). Biofuels production for  
					smallholder producers in the Greater Mekong Sub-region. Applied Energy, 86, 558-568.  
					Marsh, D., & Rhodes, R. A. W. (1992). Policy communities and issue networks. In D. Marsh  
					& R. A. W. Rhodes (Eds.), Policy networks in British government (pp. 249-268). New  
					York, NY: Oxford University Press.  
					McMichael, P. (2009). The agrofuels project at large. Critical Sociology, 35, 825-839.  
					McMichael, P. (2010). Agrofuels in the food regime. Journal of Peasant Studies, 37, 609-629.  
					Mitchell, D. (2008). A note on rising food prices (Policy research working paper 4682).  
					Washington, DC: World Bank.  
					Mol, A. P. J. (2007). Boundless biofuels? Between environmental sustainability and  
					vulnerability, Sociologia Ruralis, 47, 297-315.  
					Mol, A. P. J. (2010). Environmental authorities and biofuel controversies. Environmental  
					Politics, 19, 61-79.  
					O’Connor, D. (2008). Governing the global commons: Linking carbon sequestration and  
					biodiversity conservation in tropical forests, Global Environmental Change, 18, 368-374.  
					Office of the President. (2010). Benigno S. Aquino III, State of the Nation Address July 26,  
					2010 (English). Office Gazette of the Office of the President. Retrieved from  
					
					Pahl, G. (2005). Biodiesel: Growing a new energy economy. White River Junction, VT:  
					Chelsea Green.  
					Pascual, L., & Tan, R. (2004). Comparative life cycle assessment of coconut biodiesel and  
					conventional diesel for Philippine automotive transportation and industrial boiler  
					application. Unpublished manuscript.  
					
					.pnoc.com.ph/about/milestones.php?page=2  
					Philippine  
					Senate.  
					(2008a).  
					Transcript/Session  
					No.  
					67.  
					Retrieved  
					from  
					
					!.oc  
					Philippine  
					Senate.  
					(2008b).  
					Transcript/Session  
					No.  
					49.  
					Retrieved  
					from  
					
					21  
				!.doc. Downloaded from jed.sagepub.com at New School Digital Library on February 25,  
					2011. Montefrio and Sonnenfeld 23  
					Pulhin, J., & Inoue, M. (2008). Dynamics of devolution process in the management of the  
					Philippine forests. International Journal of Social Forestry, 1, 1-26.  
					Rhodes, R. A. W., & Marsh, D. (1992). Policy networks in British politics: A critique of  
					existing approaches. In D. Marsh & R. A. W. Rhodes (Eds.), Policy networks in British  
					government (pp. 1-26). New York, NY: Oxford University Press.  
					Rosegrant, M., Msangi, W., Sulser, T., &Valmonte-Santos, R. (2006). Bioenergy and  
					agriculture: Promises and challenges. Biofuels and the global food balance (Focus 14,  
					Brief  
					3/12).  
					Retrieved  
					from  
					
					Sabatier, P. (1988). An advocacy coalition framework of policy change and the role of  
					policyoriented learning therein. Policy Science, 21, 129-168.  
					Sabatier, P. (1998). The advocacy coalition framework: Revisions and relevance for Europe.  
					Journal of European Public Policy, 5, 98-130.  
					Sabatier, P., & Jenkin-Smith, H. (1999). The advocacy coalition framework: An assessment.  
					In P. Sabatier (Ed.), Theories of the policy process (pp. 117-166). Boulder, CO: Westview  
					Press.  
					Sabatier, P., & Weible, C. (2007). The advocacy coalition framework: Innovations and  
					clarifications. In P. Sabatier (Ed.), Theories of the policy process (2nd ed, pp. 189-220).  
					Boulder, CO: Westview Press.  
					Searchinger, T., Heimlich, R., Houghton, R. A., Dong, F., Elobeid, A., Fabiosa, J., . . . Yu, T.  
					H. (2008). Use of U.S. croplands for biofuels increases greenhouse gases through  
					emissions from land-use change. Science, 319, 1238-1240.  
					Tan, R., Culaba, A., & Purvis, M. R. I. (2004). Carbon balance implications of coconut  
					biodiesel utilization in the Philippine automotive transport sector. Biomass and Bioenergy,  
					26, 579-585.  
					Tubeza, P. (2006, April 21). Senators told to step on the gas on biofuels. Philippine Daily  
					Inquirer, p. 7.  
					United Nations General Assembly. (2007). The right to food. A/62/289. Retrieved from  
					
					Zhou, A., & Thomson, E. (2009). The development of biofuels in Asia. Applied Energy, 86,  
					S11-S20.  
					Bios  
					Marvin Joseph F. Montefrio is a PhD student in environmental and natural resources policy at  
					the State University of New York College of Environmental Science and Forestry  
					(SUNYESF) in Syracuse; he is also completing an MPA degree at Syracuse University’s  
					Maxwell School of Citizenship and Public Affairs.  
					David A. Sonnenfeld is professor of sociology and environmental policy at SUNY-ESF; and  
					research associate, Environmental Policy Group, Wageningen University, the Netherlands.  
					His most recent, coedited book is The Ecological Modernisation Reader: Environmental  
					Reform in Theory and Practice (2009).  
					22  
				Bạn đang xem tài liệu "Rừng nhiên liệu hay lương thực? Các liên minh cạnh tranh và hoạch định chính sách nhiên liệu sinh học ở Philipin", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
        
        
        File đính kèm:
 rung_nhien_lieu_hay_luong_thuc_cac_lien_minh_canh_tranh_va_h.pdf rung_nhien_lieu_hay_luong_thuc_cac_lien_minh_canh_tranh_va_h.pdf

