Tái cơ cấu đầu tư công trong bối cảnh đổi mới mô hình tăng trưởng và tái cấu trúc nền kinh tế ở Việt Nam

KIẾN NGHỊ HỘI THẢO  
“TÁI CƠ CẤU ĐẦU TƯ CÔNG TRONG BỐI CẢNH  
ĐỔI MỚI MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG VÀ  
TÁI CẤU TRÚC NỀN KINH TẾ Ở VIỆT NAM”  
Từ khi khởi xướng công cuộc đổi mới đất nước  
đến nay, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn  
và toàn diện trên các mặt kinh tế - xã hội và chính thức  
trở thành nước có thu nhập trung bình trên thế giới.  
Tuy nhiên, việc kéo dài quá lâu mô hình tăng trưởng  
kinh tế theo chiều rộng, chủ yếu dựa vào tăng vốn đầu  
tư, đặc biệt là đầu tư công hiệu quả thấp, góp phần  
khiến nền kinh tế luôn đối diện với những mất cân đối  
vĩ mô quan trọng như chênh lệch tiết kiệm - đầu tư,  
thâm hụt thương mại, thâm hụt ngân sách trong thời  
gian dài v.v... Đây chính là những nguyên nhân cơ bản  
gây ra những bất ổn kinh tế vĩ mô như lạm phát tăng  
cao, tỷ giá biến động mạnh và khó lường, nợ công và nợ  
nước ngoài đang dần đến ngưỡng nguy hiểm, thị trường  
tài chính tiền tệ có những biến động mạnh về lãi suất,  
niềm tin của thị trường vào điều hành kinh tế vĩ mô bị  
suy giảm v.v... Vì vậy, tái cấu trúc nền kinh tế đang là  
một yêu cầu bức thiết trong bối cảnh hậu khủng hoảng  
3
tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu 2008-2010 và  
nước ta bước vào giai đoạn phát triển mới nhằm kiến  
tạo những nền tảng thể chế và chính sách phù hợp cho  
bước phát triển nhanh và bền vững sắp tới. Một trong  
những nội dung trụ cột của quá trình tái cấu trúc nền  
kinh tế là tái cơ cấu đầu tư công.  
Những nội dung cụ thể của tái cơ cấu đầu tư công  
bước đầu cần đặt ra là: Thứ nhất, tái cơ cấu nguồn vốn  
cho đầu tư công, cụ thể là (i) tỷ trọng các nguồn vốn  
trong tổng vốn dành cho đầu tư công; (ii) tỷ trọng của  
đầu tư công trên tổng đầu tư của toàn xã hội; (iii) mối  
quan hệ giữa đầu tư công và đầu tư khu vực tư nhân  
v.v... Thứ hai, tái cơ cấu đầu tư công theo các ngành và  
lĩnh vực: (i) tập trung phân bổ đầu tư vào những ngành  
nào (nông nghiệp và phát triển nông thôn, giao thông,  
năng lượng, sản xuất công nghiệp, y tế, giáo dục v.v...);  
(ii) trong mỗi ngành, đầu tư công nên chú trọng đến  
những phân ngành nào (ví dụ, trong ngành giao thông,  
nên tập trung cho đường sắt, đường bộ hay cảng biển  
v.v...). Thứ ba, cần có những điều kiện, thiết chế gì để  
hỗ trợ quá trình tái cơ cấu đầu tư công.  
Với mục đích tạo một diễn đàn để trao đổi, thảo  
luận nhằm tìm ra những ưu tiên chiến lược, các khâu  
đột phá và quy trình thực hiện tái cơ cấu đầu tư công  
trong thời gian tới và ngay trong năm 2011 như Nghị  
quyết của Quốc hội về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã  
hội năm 2011 đã nêu, trong khuôn khổ Dự án “Hỗ trợ  
4
nâng cao năng lực tham mưu, thẩm tra và giám sát  
chính sách kinh tế vĩ mô” do UNDP tài trợ, Ủy Ban  
Kinh tế của Quốc hội đã phối hợp với Viện Khoa học  
Xã hội Việt Nam tổ chức Hội thảo “Tái cơ cấu đầu tư  
công trong bối cảnh đổi mới mô hình tăng trưởng và tái  
cấu trúc nền kinh tế ở Việt Nam” tại thành phố Huế  
trong 2 ngày 28-29/12/2010.  
Đồng chí Hà Văn Hiền - Ủy viên BCHTW Đảng,  
Ủy viên UBTVQH, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Đồng  
chí Nguyễn Xuân Thắng, Phó Chủ tịch Viện Khoa học  
xã hội Việt Nam đồng chủ trì Hội thảo. Tham dự Hội  
thảo có Thường trực Ủy ban Kinh tế và một số thành  
viên Ủy ban Kinh tế, đại diện Hội đồng Dân tộc và một  
số Ủy ban của Quốc hội; đại diện Văn phòng Trung  
ương Đảng, Văn phòng Chính phủ, Bộ Kế hoạch và Đầu  
tư, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Nông nghiệp và Phát triển  
nông thôn; lãnh đạo Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân  
dân và Đoàn ĐBQH tỉnh Thừa Thiên-Huế; đại diện  
Đoàn ĐBQH và Ủy ban nhân dân một số tỉnh, thành  
phố trực thuộc Trung ương; các chuyên gia kinh tế, các  
nhà khoa học đến từ Viện Khoa học xã hội Việt Nam và  
một số Viện nghiên cứu, Trường đại học; đại diện một  
số tổ chức quốc tế như Chương trình phát triển Liên  
Hiệp Quốc (UNDP), Dự án STAR Việt Nam, Cơ quan  
phát triển của Vương quốc Anh tại Việt Nam và các cơ  
quan thông tấn, báo chí.  
5
Hội thảo đã phân tích, làm rõ thực trạng đầu tư  
công của Việt Nam1, xác định những thành tựu cũng  
như hạn chế yếu kém và nguyên nhân, từ đó đề xuất  
các định hướng tái cơ cấu đầu tư công trong giai đoạn  
phát triển sắp tới theo những vấn đđặt ra ở trên cũng  
như chính sách và giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư  
công. Báo cáo về kết quả Hội thảo đã được Ủy ban  
Kinh tế gửi tới các cơ quan của Đảng, Quốc hội và  
Chính phủ cũng như các cơ quan, tổ chức hữu quan.  
Dưới đây là một số kiến nghị chính được tổng hợp từ  
24 bài tham luận và trên 30 ý kiến trao đổi, thảo luận  
trực tiếp tại Hội thảo. Các kiến nghị chi tiết được tập  
hợp đầy đủ trong Kỷ yếu của Hội thảo.  
Kiến nghị 1: Trong quá trình chuyển đổi mô  
hình tăng trưởng cần giảm dần tỷ trọng đầu tư công  
trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội, nâng cao hiệu  
quả đầu tư công cũng như tạo cơ hội bình đẳng cho  
các nguồn vốn khác của xã hội.  
Trong nhiều năm qua, Việt Nam đã theo đuổi mô  
hình tăng trưởng chủ yếu dựa vào tăng vốn đầu tư.  
Tổng đầu tư toàn xã hội đã liên tục tăng và duy trì ở  
mức cao. Tỷ lệ vốn/GDP đã tăng từ 35,4% năm 2001  
lên 41.9% năm 2010, bình quân cho cả giai đoạn 2001-  
1
Tại hội thảo, đầu tư công được hiểu là đầu tư bằng nguồn vốn nhà nước theo quy  
định của pháp luật hiện hành, bao gồm vốn ngân sách nhà nước, vốn tín dụng do Nhà  
nước bảo lãnh, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, vốn đầu tư phát triển của  
doanh nghiệp nhà nước và các vốn khác do Nhà nước quản lý.  
6
2010 là xấp xỉ 41%, so với 30,7% trong giai đoạn 1991-  
2000, thuộc loại cao nhất khu vực Đông Á và Đông  
Nam Á2. Tuy nhiên, xét về cơ cấu thì khu vực kinh tế  
nhà nước vẫn chiếm tỷ lệ lớn nhất trong tổng đầu tư  
toàn xã hội mặc dù tỷ trọng của khu vực này đã giảm từ  
59,1% năm 2000 xuống còn 46,2% năm 20103 (Hình  
1), theo đó, việc giảm sút không phải do Nhà nước hạn  
chế bớt đầu tư công, mà do các khu vực kinh tế khác có  
tốc độ tăng cao hơn.  
Mặc dù đầu tư công trong thập niên qua đã làm  
thay đổi đáng kể kết cấu hạ tầng kỹ thuật, thúc đẩy tăng  
trưởng kinh tế, góp phần nâng cao chất lượng đời sống  
người dân, song đánh giá hiệu quả của đầu tư công cần  
xem xét mối tương quan giữa lượng vốn đã bỏ ra và kết  
quả đạt được. Thước đo hiệu quả vốn đầu tư thường  
được dùng phổ biến hiện nay là hệ số sử dụng vốn  
(Incremental Capital Output Ratio – ICOR). Bảng 3 cho  
thấy ICOR của Việt Nam cao, hay nói cách khác, hiệu  
quả đầu tư của Việt Nam giai đoạn 2000-2007 là tương  
đối thấp. Trong khi đó, ICOR ở các nước trong giai  
2
Năm 2007, tỷ lệ vốn đầu tư/GDP của Việt Nam chỉ thấp hơn so với Trung Quốc  
(44,2%), nhưng cao hơn nhiều so với Hàn Quốc (29,4%), Thái Lan (26,8%),  
Indonesia (24,9%), Malaysia (21,9%) và Philippines (15,3%). Qua các năm, tỷ trọng  
này đều có xu hướng giảm ở hầu hết các nước, trong khi ở Việt Nam lại tăng mạnh và  
luôn duy trì ở mức cao.  
Về số tuyệt đối, nếu tính theo giá so sánh 1994, tổng vốn đầu tư xã hội đã tăng từ 115  
nghìn tỷ đồng năm 2000 lên 371 nghìn tỷ đồng năm 2009, bình quân mỗi năm tăng  
13,9%. Riêng năm 2010, vốn đầu tư xã hội đã tăng 17.1% so với năm 2009.  
3 Ước thực hiện trích từ phụ lục kèm theo Báo cáo của Chính phủ tại kỳ họp thứ 8 của  
Quốc hội khóa XII.  
7
đoạn phát triển tương đương với Việt Nam hiện nay  
thấp hơn nhiều (Đài Loan 2,7 (1981-1990), Hàn Quốc  
3,2 (1981-1990), Nhật Bản 3,2 (1961-1970), Trung  
Quốc 4,1 (1991-2003).  
Hiệu quả đầu tư của nền kinh tế chưa cao có  
nguyên nhân quan trọng là do đầu tư của khu vực nhà  
nước không đạt được hiệu quả kinh tế cao như đầu tư  
từ khu vực tư nhân vì mục đích của đầu tư công không  
hoàn toàn hướng tới mục tiêu lợi nhuận và hiệu quả  
kinh tế. Tuy nhiên điều này không thể biện minh cho  
việc đầu tư kém hiệu quả của khu vực nhà nước. Dù  
đầu tư để phát triển hạ tầng, phát triển vùng kinh tế -  
xã hội khó khăn, hay thực hiện các nhiệm vụ xã hội  
khác thì cũng cần tính đến hiệu quả kinh tế vì đó là tiêu  
chí đầu tiên và quan trọng nhất để quyết định đầu tư.  
Hơn nữa, trong 10 năm qua, mặc dù tỷ trọng đầu tư vào  
các ngành không thay đổi nhiều, nhưng ICOR của khu  
vực nhà nước tăng lên nhanh chóng, thể hiện chất  
lượng đầu tư thấp và liên tục giảm dần. Ngoài ra, hiệu  
quả đầu tư công thấp còn do việc đầu tư thiếu quy  
hoạch, dàn trải và phân tán; vốn được phân bổ vào quá  
nhiều dự án nên các dự án thường thiếu vốn và kéo dài  
tiến độ, làm tăng chi phí đầu tư, gây lãng phí, tạo kẽ hở  
cho tình trạng tham nhũng; quản lý và giám sát đầu tư  
còn yếu kém làm thất thoát vốn đầu tư và chưa bảo đảm  
chất lượng công trình như dự kiến; phân cấp quyết định  
8
và sử dụng vốn đầu tư chưa đi kèm với giám sát, kiểm  
soát chất lượng và hiệu quả đầu tư v.v...  
Vì vậy, trong giai đoạn phát triển mới của nền kinh  
tế bên cạnh việc nhanh chóng chuyển đổi mô hình kinh  
tế chủ yếu dựa vào tăng vốn đầu tư sang mô hình phát  
triển theo chiều sâu, hướng đến năng suất và phát triển  
bền vững bằng cách phân bổ lại nguồn lực của nền kinh  
tế, trong đó, cần tạo đột phá trong việc tái cơ cấu đầu tư  
công theo hướng giảm dần tỷ trọng đầu tư công trong  
tổng vốn đầu tư toàn xã hội, đồng thời tăng cường  
mạnh mẽ hiệu quả và chất lượng của đầu tư công.  
Ngoài ra, cần tạo cơ hội bình đẳng cho các nguồn  
đầu tư khác của xã hội, bằng cách chủ động xây dựng  
và công bố danh mục dự án cụ thể để huy động các  
nguồn lực trong xã hội phục vụ mục tiêu đầu tư phát  
triển theo các hình thức BOT, BT, PPP; tạo ra các cơ  
chế để huy động tối đa các nguồn vốn xã hội, giảm dần  
sự phụ thuộc, trông chờ vào ngân sách; khuyến khích  
các doanh nghiệp tư nhân tham gia đấu thầu thực hiện  
các dự án có vốn NSNN, kể cả từ nguồn ODA.  
Kiến nghị 2: Vai trò của đầu tư công trong nền  
kinh tế cần được thay đổi theo hướng giảm bớt chức  
năng “đầu tư để kinh doanh”, tăng cường chức  
năng “phúc lợi” của đầu tư công.  
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội  
chủ nghĩa, vai trò “chủ đạo” của Kinh tế Nhà nước  
9
không đồng nghĩa với việc Nhà nước phải đầu tư với  
khối lượng lớn vào cả những ngành, lĩnh vực mà các  
thành phần kinh tế khác có thể làm được mà Nhà nước  
chỉ tập trung đầu tư công vào một số ít ngành trọng  
điểm, có tính đột phá và lan tỏa mạnh, đồng thời thể  
hiện vai trò “bà đỡ” và can thiệp cần thiết khi có thất  
bại thị trường.  
Tuy nhiên trong thời gian qua, cơ cấu đầu tư công  
trong các ngành chưa thể hiện rõ được vai trò “bà đỡ”  
cho nền kinh tế. Trong giai đoạn 2000-2009, đầu tư  
cho lĩnh vực kinh tế luôn chiếm trên 73% vốn đầu tư  
của Nhà nước, đầu tư vào các ngành thuộc lĩnh vực xã  
hội liên quan trực tiếp đến sự phát triển của con người  
(khoa học, giáo dục và đào tạo, y tế và cứu trợ xã hội,  
văn hóa, thể thao, phục vụ cá nhân và cộng đồng) còn  
rất khiêm tốn, giảm từ 17,6% năm 2000 xuống còn  
15,2% năm 2009, trong đó đầu tư cho khoa học, giáo  
dục và đào tạo giảm tỷ trọng từ 8,5% năm 2000 xuống  
còn 5,1% năm 2009; y tế và cứu trợ xã hội từ 2,4%  
những năm 2000-2003 lên 3,2-3,9% những năm 2004-  
2008 và giảm còn 2,8% năm 2009; đầu tư cho lĩnh vực  
quản lý nhà nước những năm gần đây chiếm khoảng  
8%. (Bảng 4 và Hình 2). Như vậy, đầu tư công vẫn chủ  
yếu tập trung vào một số ngành mà khu vực tư nhân có  
khả năng và sẵn sàng đầu tư, trong khi đầu tư vào phát  
triển nguồn lực con người còn chưa được chú trọng và  
chưa tương xứng với bối cảnh phát triển như vũ bão của  
10  
khoa học - công nghệ và nền kinh tế tri thức. Ngoài ra,  
Hình 3 cũng cho thấy cơ cấu đầu tư công theo các  
ngành hầu như không có biến động lớn trong suốt một  
thập niên cũng cho thấy rằng chúng ta vẫn chưa sử  
dụng đầu tư công như một công cụ phục vụ mục tiêu  
chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong dài hạn và điều tiết sự  
phát triển xã hội.  
Nhìn sâu hơn vào cơ cấu đầu tư công trong các  
ngành công nghiệp có thể thấy đầu tư vào các ngành  
công nghệ cao, các ngành có khả năng dẫn dắt chuyển  
đối cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại hóa còn chưa đáp  
ứng được yêu cầu đặt ra4, thậm chí đi ngược lại những  
nguyên tắc cơ bản của đầu tư công là Nhà nước chỉ tạo  
lập những nền tảng cho tăng trưởng và phát triển, tập  
trung đầu tư vào các lĩnh vực mà cơ chế thị trường  
không hoạt động hoặc hoạt động không hiệu quả.  
Vì vậy, để thực hiện đúng vai trò của đầu tư công,  
cần thay đổi tư duy về mục tiêu của đầu tư công theo  
hướng giảm bớt chức năng “đầu tư để kinh doanh”, tăng  
cường chức năng “phúc lợi” của đầu tư công. Không đầu  
tư vào các ngành mà khu vực tư nhân có thể đảm nhiệm,  
chuyển trọng tâm ra ngoài lĩnh vực kinh tế nhất là kinh  
4
Các ngành công nghiệp chế tạo máy móc, thiết bị, dụng cụ y tế, cơ khí chính xác,  
thiết bị quang học, hóa chất đều có tốc độ tăng thấp hơn mức bình quân toàn ngành  
công nghiệp thuộc khu vực nhà nước. Thậm chí, tỷ trọng trong các ngành chế tạo  
dụng cụ y tế, cơ khí chính xác, thiết bị quang học giảm đi và hầu như không còn trong  
khu vực nhà nước. Trong khi đó, công nghiệp khai thác mỏ lại tăng nhanh hơn mức  
bình quân chung và chiếm tỷ trọng ngày càng lớn hơn (Bảng 5).  
11  
doanh, để tập trung phát triển kết cấu hạ tầng cũng như  
những nền tảng khác cho sự phát triển nói chung.Cụ thể  
là tăng cường đầu tư công cho phát triển cơ sở hạ tầng  
(giao thông, điện); đầu tư hoặc hỗ trợ một số ngành,  
lĩnh vực, dự án trọng điểm, mũi nhọn có tác động lan tỏa  
về mặt công nghệ; đầu tư phát triển và ứng dụng khoa  
học công nghệ gắn với sản xuất; đầu tư cho giáo dục đào  
tạo, y tế và phúc lợi xã hội để phát triển nguồn nhân lực  
có trình độ kỹ thuật cao; nâng cao năng lực quản lý và  
hiện đại hóa quản lý nhà nước, bảo đảm an sinh xã hội.  
Kiến nghị 3: Kiểm soát chặt chẽ đầu tư công là  
biện pháp quan trọng giúp giảm thâm hụt ngân  
sách, tạo điều kiện cho ổn định kinh tế vĩ mô và tạo  
nền tảng vững chắc cho tăng trưởng bền vững trong  
trung và dài hạn.  
Hiện nay, chi cho đầu tư phát triển ở nước ta vẫn  
ở mức cao5. Nếu tính đầy đủ các hạng mục của đầu tư  
công (bao gồm ngân sách, vốn tín dụng của Nhà nước,  
trái phiếu chính phủ và đầu tư của các DNNN), thì tỷ lệ  
vốn đầu tư của Nhà nước so với GDP năm 2000 là  
20,2% và năm 2009 là 17,3% (Bảng 7). Có thể nói,  
Chính phủ Việt Nam là nhà đầu tư lớn nhất (tính theo  
5
Khoảng 1/3 ngân sách hàng năm là chi cho đầu tư phát triển (Bảng 6). Năm 2007  
vốn đầu tư từ ngân sách chiếm đến 9,8% GDP, trong khi ở Inđônêxia là 1,6%,  
Malaixia 5,8%, Philipines 1,8% (số liệu 2000), Thái Lan 3,2% (số liệu 2004), Hàn  
Quốc 3,7%, Trung Quốc 3,5% (số liệu 2003).  
12  
% GDP) so với chính phủ các nước trong khu vực Đông  
Á và Đông Nam Á.  
Do đầu tư từ ngân sách trên thực tế luôn cao hơn  
nhiều so với kế hoạch và chiếm tỷ trọng lớn trong ngân  
sách nên đầu tư công là một trong những nguyên nhân  
chính khiến bội chi ngân sách luôn ở mức cao trong  
nhiều năm qua. Ví dụ, năm 2010, vốn đầu tư từ ngân  
sách dự kiến là 125,5 ngàn tỷ đổng, thì thực tế đã lên  
tới hơn 180 ngàn tỷ đồng, cao hơn 55,5 ngàn tỷ  
(44,2%) so với dự kiến, tương đương 2,7 tỷ đô la  
(khoảng 2,7% GDP năm 2010). Nếu đầu tư được thực  
hiện theo đúng kế hoạch, bội chi ngân sách năm 2010  
có thể chỉ khoảng 3,5%. Ngoài ra, nếu tính cả đầu tư từ  
nguồn trái phiếu chính phủ thì bội chi ngân sách lên  
đến 9,45%, thuộc loại cao nhất trong khu vực (Hình 4).  
Để bù đắp cho những khoản chi tiêu công không  
ngừng tăng lên, chúng ta đang thực hiện chính sách tài  
khóa liên tục tăng thu, từ 20,5% GDP năm 2000 lên  
khoảng 28% trong giai đoạn 2006-2010 và tốc độ tăng  
thu ngân sách luôn cao hơn tốc độ tăng trưởng GDP.  
Nhà nước đang thu về ngày càng nhiều hơn phần của  
cải tăng lên của xã hội mà đáng lẽ kinh tế dân doanh có  
thể dùng để tích lũy và đầu tư. Tỷ lệ huy động từ GDP  
cho ngân sách nhà nước của Việt Nam đang đứng ở  
mức cao nhất trong khu vực (Bảng 8).  
13  
Sự mất cân đối tiết kiệm - đầu tư trong khu vực  
công, hay thâm hụt ngân sách, đã và đang là nguyên  
nhân trực tiếp khiến chênh lệch tiết kiệm - đầu tư của  
nền kinh tế ngày càng gia tăng dẫn tới hệ quả là: (i)  
thâm hụt tài khoản vãng lai và nợ quốc gia tăng cao; (ii)  
lãi suất luôn bị giữ ở mức cao gây khó khăn cho tăng  
trưởng và tích tụ rủi ro tài chính, đặc biệt là trong hệ  
thống ngân hàng; (iii) thâm hụt ngân sách dai dẳng  
khiến lạm phát tăng cao trong nhiều năm; (iv) thâm hụt  
ngân sách và lãi suất cao thu hẹp dư địa của cả công cụ  
tài khóa và tiền tệ trong điều hành kinh tế vĩ mô, khiến  
chính sách kinh tế vĩ mô khó phản ứng trước những cú  
sốc tới nền kinh tế, hoặc nếu có thì phải chấp nhận chi  
phí cao.  
Như vậy, khi tỷ trọng đầu tư công trong ngân sách ở  
mức cao sẽ làm suy yếu những nền tảng vĩ mô của nền  
kinh tế, giảm dư địa điều hành của Chính phủ trong quản  
lý kinh tế vĩ mô khiến nền kinh tế rơi vào tình trạng dễ bị  
tổn thương trước các cú sốc bất lợi từ bên ngoài. Vì vậy,  
kiểm soát vốn đầu tư công và nâng cao kỷ luật tài khóa có  
ý nghĩa quan trọng trong ổn định kinh tế vĩ mô và tạo nền  
tảng vững chắc cho tăng trưởng bền vững trong trung và  
dài hạn. Các kiến nghị cụ thể là:  
Giảm tỷ lệ huy động từ GDP vào ngân sách nhà  
nước, qua đó tạo môi trường thuận lợi hơn cho  
khu vực tư nhân có tích lũy nhiều hơn đđầu  
14  
tư phát triển. Các khoản vượt thu ngân sách so  
với dự toán phải đưa vào dự phòng.  
Giảm bội chi ngân sách, nghiêm túc thực hiện  
chi ngân sách theo đúng dự toán và không tự ý  
tăng chi cao hơn dự toán đã được Quốc hội phê  
duyệt.  
Điều chỉnh cơ cấu chi NSNN theo hướng giảm  
chi NSNN/GDP thông qua giảm chi cho đầu tư  
phát triển bên cạnh việc bảo đảm tăng chi  
thường xuyên và chi trả nợ/tổng chi NSNN.  
Nghiên cứu xây dựng hệ thống các tiêu chí xác  
định thứ tự ưu tiên để bảo đảm chi đầu tư công  
được giới hạn trong khả năng nguồn lực và  
thống nhất với các ưu tiên chính sách của  
Chính phủ trong trung và dài hạn.  
Từng bước tăng tính tự chủ trong các hoạt động  
của Ngân hàng Nhà nước, loại bỏ việc tài trợ cho  
thâm hụt ngân sách, để ổn định kinh tế vĩ mô.  
Kiến nghị 4: Nâng cao chất lượng và sử dụng  
vốn có hiệu quả đối với hoạt động đầu tư công từ  
nguồn trái phiếu chính phủ cần được coi là biện  
pháp then chốt trong tái cơ cấu đầu tư công.  
Chủ trương tăng vốn cho đầu tư công từ nguồn  
trái phiếu chính phủ (TPCP) từ năm 2003 đến nay là  
một quyết định đúng đắn và có đóng góp quan trọng  
15  
cho việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng  
của nền kinh tế. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện,  
việc phân bổ vốn TPCP cho các dự án đầu tư công đã  
xuất hiện nhiều tồn tại và bất cập, cụ thể như sau:  
Thứ nhất, nguồn vốn TPCP thực chất là nguồn  
vốn vay, ngân sách phải trả, nhưng lại để ngoài cân đối  
NSNN và phân bổ một cách độc lập với phân bổ dự  
toán chi NSNN; dẫn đến tình trạng chồng chéo trong  
quản lý các nguồn vốn đầu tư phát triển.  
Thứ hai, nhiều dự án đầu tư chưa hiệu quả có  
nguyên nhân ngay từ khâu quy hoạch thiếu tầm nhìn  
dài hạn và thường xuyên thay đổi. Bản thân công tác  
khảo sát, lập, thẩm định, xây dựng các dự án sử dụng  
vốn TPCP còn hạn chế, chưa tính toán chính xác tổng  
dự toán, thời gian triển khai và hoàn thành nên  
thường xuyên phải điều chỉnh mục tiêu, quy mô, tiêu  
chuẩn kỹ thuật.  
Thứ ba, việc điều hành, phân bổ và sử dụng nguồn  
vốn giữa các cấp còn nhiều hạn chế. Hiện nay các địa  
phương đã được phân cấp rộng hơn, quyết định đầu tư,  
tổng vốn đầu tư; Trung ương tổng hợp và bố trí vốn cho  
các địa phương. Cách phân bổ này chưa đạt được tiêu  
chí ưu tiên cho các địa phương, vùng miền khó khăn,  
hay cho các dự án đặc biệt cấp bách. Vì vậy, nhiều dự  
án chưa thực sự cấp bách vẫn được bố trí vốn trong khi  
một số công trình cấp thiết, cần triển khai nhanh đưa  
16  
vào sử dụng để phát huy hiệu quả lại bố trí vốn nhỏ  
giọt, ảnh hưởng đến tiến độ thi công.  
Thứ tư, tổng nguồn vốn TPCP tăng cao đã ảnh  
hưởng lớn đến khả năng cân đối ngân sách và khả năng  
vay và trả nợ trong trung hạn. Một số lý do dẫn tới hiện  
tượng trên là: (i) Chính phủ liên tục bổ sung các mục  
tiêu sử dụng TPCP, nhất là trong giai đoạn 2008-2009  
để thực hiện gói kích thích kinh tế; ( ii) cơ chế phân bổ  
nguồn vốn TPCP chưa hợp lý khi Chính phủ bố trí vốn  
và các Bộ, ngành, địa phương quyết định tổng mức đầu  
tư, dẫn đến hiện tượng các địa phương thường trình bổ  
sung danh mục hoặc bố trí vốn đầu tư dàn trải, thiếu  
tập trung làm cho nhu cầu vốn tăng vọt và Chính phủ  
luôn trong thế bị động khi phải đáp ứng đủ vốn; (iii)  
trong quá trình thực hiện dự án nảy sinh nhiều vấn đề  
như trượt giá nguyên vật liệu, tăng giá nhân công, đền  
bù giải phóng mặt bằng, thời gian thi công kéo dài, đ̀u  
chỉnh quy mô dự án6 v.v...  
Thứ năm, do nhu cầu vốn TPCP tăng cao nên việc  
phát hành TPCP không có sự phối hợp chặt chẽ với  
chính sách tiền tệ để thực hiện mục tiêu hạ mặt bằng  
lãi suất. Trong năm 2010, lãi suất TPCP ở một số thời  
điểm cao hơn lãi suất huy động của các tổ chức tín  
6 Tổng mức đầu tư ban đầu của các công trình, dự án đầu tư từ TPCP giai đoạn 2003 -  
2010 là 246.447 tỷ đồng, nhưng hiện nay qua tổng hợp của Bộ Kế hoạch và Đầu tư,  
tổng mức đầu tư điều chỉnh đã lên đến 558.654 tỷ đồng (Báo cáo số 6082/BC-BKH  
ngày 31/8/2010 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư ).  
17  
dụng gây khó khăn cho việc huy động vốn của các  
TCTD và tạo sức ép tăng lãi suất. Ngoài ra, đối tượng  
mua TPCP chủ yếu là các NHTM, sau đó lại dùng  
chính trái phiếu này để chiết khấu tại NHNN làm cho  
cung tín dụng tuy tăng mạnh nhưng chỉ chạy lòng vòng  
giữa NHTM và NHNN mà không đi vào sản xuất kinh  
doanh và không giúp hạ nhiệt lãi suất trên thị trường.  
Trước những bất cập nói trên, để có thể tái cơ cấu  
đầu tư công và nâng cao chất lượng đầu tư công thông  
qua nguồn vốn TPCP cần thực hiện một số kiến nghị  
cụ thể như sau:  
Đưa vốn TPCP vào cân đối NSNN để phản ánh  
đầy đủ và chính xác thu chi, đôǹ g thời giúp  
kiểm soát chặt chẽ nợ công và giữ ̃ng an ninh  
tài chính quốc gia.  
Lập lại trật tự trong đầu tư từ nguồn TPCP,  
đồng thời tăng cường kiểm tra, thanh tra quá  
trình quản lý và sử dụng vốn TPCP. Kiên quyết  
không duyệt chi các dự án không chứng minh  
được hiệu quả, thời gian thực hiện kéo dài, gây  
thất thoát lãng phí ở các địa phương. Không bổ  
sung danh mục mới, không bổ sung quy mô,  
mục tiêu dự án trừ trường hợp việc điều chỉnh  
tổng mức đầu tư là do thay đổi cać quy định  
của pháp luật về định mức, đơn giá nhân công,  
nguyên nhiên vật liệu.  
18  
Do TPCP chưa được đa dạng hóa về kỳ hạn, thị  
trường thứ cấp chưa phát triển, thời điểm phát  
hành và đáo hạn chưa được chuẩn hóa nên  
chưa hình thành đường cong lãi suất chuẩn  
trên thị trường và kỳ vọng của thị trường về  
biến động lãi suất trong tương lai chưa được  
định hình. Do đó, chính sách tiền tệ và chính  
sách tài khóa cần được phối hợp chặt chẽ hơn  
để khắc phục hạn chế trên7.  
Kiến nghị 5: Cải cách việc thiết kế và nâng cao  
hiệu quả thực hiện các chương trình mục tiêu quốc  
gia (CTMTQG) và các chương trình mục tiêu khác  
cũng là một giải pháp quan trọng trong tái cơ cấu và  
nâng cao hiệu quả đầu tư công.  
Một trong năm nguồn chủ yếu của đầu tư công là  
đầu tư theo các chương trình hỗ trợ có mục tiêu, bao  
gồm CTMTQG và các chương trình mục tiêu khác. Vốn  
NSNN cho những chương trình này được phân bổ theo  
dự toán hằng năm nhưng về chủ trương được quyết  
định cho thời kỳ dài hơn 1 năm, thường từ 3 đến 5  
năm. Trong thời kỳ 2001-2005 có 6 CTMTQG và tăng  
lên 11 CTMTQG trong giai đoạn 2006-2010, và đến  
năm 2011 có 15 CTMTQG. Nếu tính cả các chương  
7 Bộ Tài chính cần trao đổi thông tin kịp thời liên quan đến dự kiến các khoản thu chi  
ngân sách và kế hoạch phát hành TPCP hàng quý và hàng năm để làm cơ sở cho việc  
điều hành CSTT và ổn định thanh khoản của hệ thống TCTD.  
19  
trình và các hỗ trợ có mục tiêu khác thì các chương  
trình này lên tới con số 40. Một số CTMTQG như  
Chương trình giảm nghèo, Chương trình nước sạch và  
vệ sinh môi trường nông thôn, Chương trình giáo dục  
đào tạo giai đoạn II, Chương trình về việc làm v.v… đã  
giúp cải thiện đáng kể đời sống của người dân, góp  
phần xóa đói giảm nghèo và đảm bảo an sinh xã hội.  
Nội dung hỗ trợ của các CTMTQG là khá toàn diện như  
hỗ trợ sản xuất nông nghiệp, giáo dục, tiếp cận các dịch  
vụ cơ bản (nước, điện, dịch vụ pháp lý), nhà ở, y tế,  
tăng cường năng lực, trợ cấp, hay hỗ trợ người dân tộc.  
Tuy nhiên, việc thực hiện các CTMTQT và các  
chương trình mục tiêu khác thời gian qua đã bộc lộ một  
số nhược điểm như sau:  
Có sự chồng chéo về nội dung hỗ trợ và mục  
tiêu thực hiện giữa các chương trình ở các mức  
độ khác nhau. Sự đầu tư chồng chéo, dàn trải  
và thiếu phối hợp đã gây lãng phí lớn và hiệu  
quả mang lại không cao như mong muốn.  
Trong tổng vốn đầu tư cho các chương trình có  
một phần không nhỏ là dành cho đầu tư xây  
dựng cơ bản. Tuy nhiên, do số lượng chương  
trình lớn và kinh phí lại nằm ngoài cân đối  
ngân sách dài hạn nên không thể phân loại và  
thống kê chính xác tổng số vốn đầu tư. Do đó,  
việc quản lý trở nên phức tạp hơn và tạo không  
20  
gian cho những quyết định mang tính chủ  
quan, không theo các quy tắc và tiêu chí về chi  
tiêu ngân sách nhà nước.  
Về đối tượng thụ hưởng, theo nguyên tắc khi  
người hưởng lợi đã được hỗ trợ từ một dự án sẽ  
không được nhận hỗ trợ từ dự án khác. Tuy  
nhiên, hiện nay tiêu chí hưởng lợi là do các cơ  
quan trung ương thiết kế và có hiện tượng một  
tiêu chí nhưng cách tiếp cận lựa chọn người  
hưởng lợi đa dạng khiến ở một số nơi đối tượng  
thụ hưởng chồng chéo, trong khi ở những nơi  
khác một số nhóm và cá nhân nghèo lại bị loại  
trừ. Ngoài ra, hệ thống lựa chọn người hưởng  
lợi chưa tính đến nhu cầu của người nghèo nên  
dẫn đến hiện tượng chương trình hỗ trợ những  
nội dung mà đối tượng thụ hưởng chưa thực sự  
cần thiết.  
Vì vậy, đđầu tư công thuộc các CTMTQG và các  
chương trình mục tiêu khác có hiệu quả cao hơn, mang  
lại lợi ích lớn nhất về mặt kinh tế và xã hội cần phải rà  
soát lại và điều chỉnh mục tiêu của từng chương trình  
theo hướng cụ thể hóa các mục tiêu, thu hẹp và tránh  
trùng lặp, dàn trải. Một số chương trình có hiệu quả  
không cao, mục tiêu chưa rõ ràng và còn chồng chéo,  
trùng lặp về nội dung thì câǹ lựa chọn để lồng ghép với  
các chương trình khác. Kỷ luật tài chính cần được thực  
nghiêm túc hơn để nguồn vốn sử dụng thực sự có hiệu  
21  
quả. Ngoài ra, cần rà soát lại các tiêu chí lựa chọn đối  
tượng hưởng lợi của các chương trình có tính đến đc  
thù thực tế của các địa phương và nhu cầu của người  
hưởng lợi.  
Kiến nghị 6: Ưu tiên đầu tư công cho các dự án  
cơ sở hạ tầng theo quy hoạch phát triển (cả về  
không gian và thời gian của quốc gia, vùng, tỉnh) và  
được phê duyệt dựa trên bộ tiêu chí đánh giá hiệu  
quả kinh tế - xã hội - môi trường.  
Hệ thống cơ sở hạ tầng (CSHT) hiện đại có vai trò  
rất quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế, vì  
thế hầu hết các quốc gia phát triển ngay từ đầu đã ưu  
tiên xây dựng CSHT trong thời gian từ 20-30 năm, tạo  
tiền đề cho sự bứt phá phát triển ở giai đoạn sau. Trong  
khi đó, CSHT lại là một trong những nút thắt, điểm  
nghẽn cơ bản của nền kinh tế Việt Nam hiện nay8. Số  
lượng và chất lượng CSHT hiện chưa đáp ứng yêu cầu  
nên nguồn vốn đđầu tư phát triển CSHT là rất lớn,  
8
Theo Giám đốc Dự án Sáng kiến Cạnh Tranh Việt Nam (VNCI) của Cơ quan Phát  
triển Quốc Tế Hoa Kỳ (USAID), Chỉ số cạnh tranh toàn cầu (GCI) giai đoạn 2009-2010  
của Việt Nam đứng thứ 75, tụt 5 bậc so với 2008-2009, trong đó, trụ cột thứ 2 trong 12  
trụ cột làm nên chỉ số GCI là chỉ số CSHT chỉ đứng vị trí 94, với 3 điểm trong tổng số 7  
điểm. Trong khi đó, một số quốc gia trong khu vực như Malaysia, Thái Lan hay Trung  
Quốc có chỉ số CSHT đều cao hơn Việt Nam (từ 4,3-5 điểm). Kết quả khảo sát cũng cho  
thấy, quãng đường từ nhà máy vào trung tâm của một tỉnh, thành phố trung bình bị  
phong tỏa bởi lũ lụt, lở đất khoảng 8,7 ngày/năm, 71% doanh nghiệp cho biết sản phẩm  
của mình bị hư hại bởi chất lượng đường xấu, gây tổn thất khoảng 2.300 USD/doanh  
nghiệp và trung bình trong 1 tháng doanh nghiệp bị cắt điện khoảng 29,27 tiếng và dịch  
vụ điện thoại và mạng ngoài vùng phủ sóng khoảng 8,23 tiếng.  
22  
vượt ra ngoài khả năng của NSNN9. Hơn nữa, CSHT lại  
rất đa dạng, thường đòi hỏi vốn đầu tư lớn trong thời  
gian dài, trong khi không phải dự án nào cũng có khả  
năng hoàn vốn hay có thể đánh giá được hiệu quả kinh  
tế10. Thêm vào đó, đầu tư xây dựng CSHT còn liên  
quan đến phân cấp NSNN giữa trung ương và địa  
phương, cũng như phân chia trách nhiệm giữa quản lý  
vốn đầu tư và quản lý vốn duy tu bảo dưỡng CSHT.  
Vì vậy, cần ưu tiên đầu tư công cho CSHT theo  
một số định hướng cụ thể như sau:  
Cần lập tổ tư vấn liên ngành nghiên cứu xác định  
quan điểm phát triển CSHT trong 20 năm và tầm  
nhìn 30 năm, với sự hợp tác và hỗ trợ của các cơ  
quan tư vấn quy hoạch hàng đầu thế giới.  
Xây dựng bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả kinh tế  
- xã hội - môi trường của mỗi loại dự án CSHT  
làm căn cứ để phê duyệt các dự án và sắp xếp  
trật tự ưu tiên đầu tư. Đồng thời, các dự án  
được phê duyệt phải nằm trong quy hoạch  
không gian và thời gian phát triển CSHT của  
quốc gia và địa phương. Đây là một công cụ  
9
Eurocham ước tính Việt Nam cần khoảng 70-80 tỷ USD đầu tư cho đường bộ,  
đường sắt và CSHT cảng biển trong 5-10 năm tới. Con số này có thể lên tới mức 120  
tỷ USD nếu bao gồm cả hạ tầng về năng lượng.  
10  
Hiệu quả xã hội lại thường được dùng để biện minh cho những CSHT không thể  
làm rõ có hiệu quả kinh tế hay không, song lại khiến cho tiêu chí đánh giá hiệu quả  
kinh tế - xã hội của đầu tư CSHT thêm mù mờ, theo đó, vừa gây khó khăn cho việc  
huy động vốn cho CSHT, vừa khó kiểm tra giám sát hiệu quả của việc sử dụng những  
đồng vốn đã huy động được đó.  
23  
quan trọng để từng bước khắc phục căn bệnh  
đầu tư dàn trải, kéo dài gây lãng phí lớn.  
Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trên phương diện  
xây dựng quy hoạch phát triển, giải phóng mặt  
bằng, đầu tư xây dựng công trình nhưng sau đó  
có thể nhượng lại cho tư nhân quản lý khai thác  
để thu hồi vốn đầu tư các công trình khác.  
Cần phân bổ hiệu quả các nguồn vốn cho từng  
loại CSHT, cụ thể:  
- Vốn từ NSNN vẫn sẽ là nguồn chủ yếu cho  
CSHT trong ít nhất 5-10 năm tới. Tuy nhiên, cần giảm  
tỷ trọng đầu tư từ NSNN mặc dù số tuyệt đối chi từ  
NSNN cho CSHT vẫn có thể tăng, và chỉ dành cho các  
dự án có ý nghĩa chiến lược song chậm thu hồi vốn,  
không có lợi nhuận hoặc lợi nhuận không đáng kể. Còn  
đối với vốn ODA và nguồn vốn TPCP11, do được quản lý  
theo dự án nên cần giải quyết được 2 vấn đề cơ bản là  
lựa chọn dự án hiệu quả và bảo đảm nguồn trả nợ12.  
11  
Theo Bộ KH&ĐT, để hoàn thành các dự án đã có trong danh mục đầu tư bằng  
TPCP, trong 5 năm 2011-2015 cần huy động khoảng 315 nghìn tỷ đồng TPCP, bình  
quân 63 nghìn tỷ đồng/năm, cao hơn tổng số vốn TPCP kế hoạch năm 2010 khoảng 7  
nghìn tỷ đồng. Tuy nhiên, xuất phát từ yêu cầu phát triển bền vững, tăng cường quản  
lý nợ và dư nợ của Chính phủ và nợ công không vượt ngưỡng cho phép bảo đảm an  
ninh tài chính quốc gia, dự kiến huy động TPCP trong 5 năm 2011-2015 giảm chỉ còn  
khoảng 225 nghìn tỷ đồng; trong đó, năm 2011 là 45 nghìn tỷ đồng (giảm 11 nghìn tỷ  
đồng so với năm 2010). Dự kiến tổng số vốn TPCP này mới chỉ đáp ứng được khoảng  
70% số vốn còn thiếu để hoàn thành các dự án đã có trong danh mục hiện nay.  
12 Có thể từ nguồn thu khai thác sử dụng CSHT và nguồn chi trả nợ từ NSNN, trong  
đó nguồn thu thứ nhất cần được nâng lên, do nợ công của Việt Nam đã lên tới khoảng  
56,7% GDP năm 2010 và nợ nước ngoài lên tới gần 40% GDP.  
24  
- Không phân bổ vốn đầu tư nhà nước vào các  
ngành mà tư nhân trong nước có thể đầu tư như dịch  
vụ thương mại, nhà hàng, khách sạn v.v… Đầu tư tư  
nhân nên được khuyến khích vào những dự án CSHT  
có lợi nhuận thông qua việc cho phép khai thác sử dụng  
CSHT hay các công trình gắn với CSHT.  
- Kết hợp với nguồn vốn ngoài Nhà nước khi nhu  
cầu tài chính vượt khả năng đầu tư của NSNN, song  
phải bảo đảm an ninh tài chính quốc gia, bảo đảm khả  
năng trả nợ và cân đối được lợi ích giữa các bên tham  
gia thông qua hình thức PPP13 bên cạnh các phương  
pháp truyền thống khác như BT, BOT v.v…  
Kiến nghị 7: Tăng cường đầu tư công vào nông  
nghiệp và phát triển nông thôn, tập trung hơn vào  
phát triển giao thông, giáo dục, đào tạo và khoa học  
công nghệ trong khu vực nông nghiệp, vì đây là nền  
tảng cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế.  
Trong 10 năm qua, mặc dù nông - lâm nghiệp và  
thủy sản (NLTS) là lĩnh vực sản xuất kinh doanh của  
13 PPP là một dạng hợp đồng giữa đại diện nhà nước và tư nhân, theo đó, bên tư nhân  
cung cấp dịch vụ công hoặc dự án đồng thời chấp nhận rủi ro tài chính, kỹ thuật và  
vận hành của dự án. Trong một số mô hình PPP, người sử dụng dịch vụ phải thanh  
toán chi phí chứ không phải là người nộp thuế. Trong một số mô hình PPP khác thì tư  
nhân thực hiện dự án theo hợp đồng song nhà nước phải trả toàn bộ hay một phần chi  
phí dự án. Đối với những dự án CSHT, Chính phủ có thể tài trợ vốn dưới dạng trợ cấp  
một lần đđể hấp dẫn các nhà đầu tư tư nhân. Chính phủ cũng có thể tài trợ dưới dạng  
miễn giảm thuế hoặc bảo đảm nguồn thu ổn định cho nhà đầu tư tư nhân trong khoảng  
thời gian nhất định. Vấn đề quan trọng nhất đối với các dự án PPP là nhà đầu tư tư  
nhân cần có tỷ suất lợi nhuận cao hơn lãi suất TPCP.  
25  
một bộ phân không nhỏ dân cư nước ta nhưng chưa  
được chú trọng đầu tư một cách tương xứng, biểu hiện  
là tỷ trọng đầu tư cho lĩnh vực này trong đầu tư công đã  
giảm từ 12,2% năm 2000 xuống chỉ còn 7-8% (giai  
đoạn 2003-2008) và 6,7% (năm 2009). Hiện nay, đầu  
tư từ NSNN cho nông nghiệp chỉ chiếm 1,4% GDP,  
thấp hơn so với mức trung bình của Trung Quốc, Ấn  
Độ và Thái Lan (8-16%) và các nước Đông Nam Á khác  
(khoảng 8-9%) trong giai đoạn 1990 - 1993. Hệ quả là  
hệ thống thủy lợi ít được mở rộng và xuống cấp do  
không đủ chi phí bảo dưỡng. Các thành tựu khoa học  
ứng dụng trong nông nghiệp được chuyển giao cho  
nông dân không nhiều về số lượng và không rộng rãi về  
phạm vi. Phần lớn giống cây trồng, vật nuôi mới trong  
nông nghiệp đều phải nhập khẩu. Hệ thống cung cấp  
dịch vụ khuyến nông còn yếu. Tác động của một số  
chương trình/dự án của Nhà nước về kết cấu hạ tầng ít  
có tác động tích cực đến hiệu quả của các doanh nghiệp  
và hộ gia đình trong lĩnh vực NLTS.  
Phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn là nền  
tảng và động lực cho quá trình công nghiệp hóa và  
chúng ta cần có những giải pháp cần thiết để tăng  
cường hơn nữa đầu tư công và tiến hành điều chỉnh kết  
cấu đầu tư theo các hướng sau:  
Chú trọng phát triển giao thông nông thôn, đầu  
26  
tư cho khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo,  
đào tạo nghề và thông tin liên lạc14.  
Ưu tiên đầu tư công cho nghiên cứu giống, công  
nghệ sinh học và chuyển giao khoa học - công  
nghệ cho nông dân.  
Đầu tư vào các ngành hàng có thế mạnh và tạo  
liên kết dọc để tạo ra khả năng cạnh tranh tốt  
nhất cho hàng nông sản. Đầu tư công phải tạo  
được cú huých mạnh ở các mặt hàng nông sản  
có khả năng cạnh tranh như gạo, cà phê, cao su,  
thủy sản v.v… và tạo điều kiện cho các mặt hàng  
này gắn kết chặt chẽ với chuỗi giá trị toàn cầu.  
Thay đổi cung cách quản lý đầu tư công trong  
nông nghiệp, phân cấp đầu tư rõ ràng và không  
trùng lắp giữa vùng, địa phương và cơ sở. Cần  
có cơ quan quản lý phát triển vùng tập trung  
vào các vấn đề quy hoạch và điều hành về phát  
14  
Nghiên cứu của Ngân hàng Thế Giới năm 2003 sử dụng số liệu của Bộ Nông  
nghiệp và Phát triển Nông thôn, Bộ Tài chính và Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế  
Trung ương, cho thấy đầu tư công vào giáo dục có tác động rõ rệt thúc đẩy sản xuất  
nông nghiệp, các đầu tư công khác như thuỷ lợi, đường nông thôn, và nghiên cứu  
nông nghiệp cũng đóng góp vào tăng trưởng của ngành nông nghiệp. Về hiệu quả đầu  
tư, họat động nghiên cứu nông nghiệp đem lại lợi ích lớn nhất, cứ mỗi một đồng chi  
tiêu thì sẽ tạo ra được khoảng 11 đồng giá trị sản lượng nông nghiệp. Một đồng đầu tư  
vào điện thoại và giáo dục cũng đem lại lợi ích 5-7 đồng giá trị sản lượng nông  
nghiệp. Đường giao thông và điện có tỷ lệ lợi ích - chi phí là 2-3,5. Về xóa đói giảm  
nghèo, 1 tỷ đồng đầu tư vào nghiên cứu nông nghiệp thì có 246 người thoát nghèo, 1  
tỷ đồng đầu tư vào đường sá sẽ có 207 người thoát nghèo. Đầu tư vào giáo dục, điện  
thọai và điện cũng mang lại lợi ích lớn cho việc giảm nghèo.  
27  
triển vùng nhưng không phải là cơ quan quản lý  
hành chính như chính quyền địa phương.  
Kiến nghị 8: Đẩy mạnh cải cách khu vực DNNN  
là một điều kiện để nâng cao hiệu quả đầu tư công.  
Vốn đầu tư của các DNNN15 chiếm khoảng 20-30%  
tổng vốn đầu tư công (Bảng 9). Với tỷ trọng nói trên thì  
hiệu quả đầu tư thấp của khu vực DNNN là nguyên  
nhân quan trọng làm suy giảm hiệu quả và chất lượng  
đầu tư của đầu tư công nói chung. Trong khi vốn đầu tư  
và tài sản cố định của khu vực kinh tế nhà nước tăng lên  
rất nhanh, chiếm hơn 50% tổng số vốn của các doanh  
nghiệp trong nền kinh tế, thì đóng góp vào GDP của khu  
vực này lại có xu hướng giảm dần và hiện chỉ chiếm  
khoảng 37-39% GDP (Bảng 10). Nếu trừ đi đóng góp từ  
quản lý nhà nước, an ninh quốc phòng, giáo dục đào tạo,  
y tế cứu trợ, văn hoá thể thao v.v... thì DNNN chỉ đóng  
góp khoảng 27% vào GDP năm 2008 (Bảng 11)16.  
Hiệu quả đầu tư thấp trong các DNNN xuất phát  
từ nhiều nguyên nhân như tình trạng thất thoát và lãng  
phí vốn đầu tư; nhiều tập đoàn kinh tế nhà nước đầu tư  
vào các ngành, nghề, lĩnh vực không thuộc phạm vi  
15 Vốn của doanh nghiệp có nguồn gốc từ NSNN: vốn từ khấu hao cơ bản để lại; từ lợi  
nhuận sau thuế; từ đất đai, nhà xưởng còn chưa sử dụng đến, được huy động đầu tư  
phát triển sản xuất kinh doanh; vốn vay với sự bảo lãnh của Chính phủ…  
16  
Theo một nghiên cứu của chương trình giảng dạy Fullbright, trong giai đoạn sau  
năm 2004, vốn đầu tư của nhà nước tăng trưởng gần 38% một năm và chiếm 48%  
trong toàn bộ mức tăng vốn cố định, nhưng các DNNN chỉ chiếm 17% tăng trưởng  
doanh số trong khi số việc làm lại giảm sút.  
28  
hoạt động kinh doanh chính, dẫn đến hiệu quả thấp  
hoặc thua lỗ; do được bao cấp một số yếu tố đầu vào  
cho sản xuất (đất đai, tài nguyên, tín dụng v.v…) nên  
nhiều DNNN hiện chủ yếu dựa vào vốn tín dụng và tài  
nguyên đđầu tư mở rộng quy mô kinh doanh và không  
chú trọng phát triển công nghệ và nâng cao năng suất;  
kỹ năng quản trị doanh nghiệp còn yếu kém v.v… Với  
hiệu quả đầu tư thấp như vậy, chỉ số ICOR của khu vực  
kinh tế nhà nước, cụ thể là các DNNN cao hơn nhiều  
so với khu vực kinh tế tư nhân trong nước và khu vực  
đầu tư nước ngoài17. Bên cạnh đó, do đầu tư kém hiệu  
quả trong khi tích lũy và tiết kiệm thấp, nhiều DNNN  
đã phải vay trong nước và ngoài nước đđầu tư18.  
Có thể nói, đầu tư kém hiệu quả của khu vực  
DNNN đã và đang là gánh nặng cho nền kinh tế, làm  
tăng nợ chính phủ và ảnh hưởng xấu đến năng lực cạnh  
tranh của nền kinh tế. Vì thế, cải cách DNNN để tăng  
cường hiệu quả đầu tư công là một trong những giải  
pháp cấp bách hiện nay, với những kiến nghị cụ thể sau:  
17 Xem thêm kiến nghị 1.  
18  
Theo Báo cáo Điểm lại của Ngân hàng Thế giới (2010), đến cuối năm 2009, dư nợ  
ngân hàng cho các DNNN vay đã lên đến 33% GDP, dư nợ trái phiếu do DNNN phát  
hành lên đến 3,2% GDP. Như vậy, tổng nghĩa vụ nợ của DNNN lên đến 36,2% GDP,  
và số nợ này phải được coi là “nghĩa vụ nợ dự phòng của Chính phủ.  
Theo báo cáo của Chính phủ trình kỳ họp Quốc Hội vừa qua, tính đến ngày  
30/06/2010, vốn chủ sở hữu ở các tập đoàn, tổng công ty nhà nước là 30 tỷ USD, giá  
trị tài sản cố định là 70 tỷ USD, nợ phải trả tính đến 2009 là 40 tý USD, tương đương  
40% GDP, trong khi lợi nhuận của các tập đoàn, tổng công ty này chỉ là 2 tỷ USD/  
năm, tức là cần chi toàn bộ lợi nhuận trong suốt 20 năm mới có thể trả nợ.  
29  
Công khai tuyển chọn, bổ nhiệm cán bộ chủ  
chốt của DNNN theo những tiêu chí đã được  
cam kết khi nhậm chức về tăng năng suất lao  
động, hiệu quả đồng vốn, giảm tiêu hao năng  
lượng, vật tư v.v... Thiết lập hệ thống thông tin  
và thiết chế giám sát, quản lý doanh nghiệp,  
thực hiện công khai hóa và minh bạch hóa  
thông tin đối với các DNNN.  
Cân đối lại những đặc quyền của DNNN trong  
việc tiếp cận các nguồn tài nguyên thiên nhiên,  
đất đai, thông tin v.v... Cần xoá bỏ mọi hình  
thức cho vay, cấp tín dụng theo chỉ đạo,  
“khoanh nợ, giãn nợ” cho DNNN, tính đủ chi  
phí đối với DNNN theo giá thị trường.  
Giảm cấp vốn ngân sách cho đầu tư của các  
Tập đoàn và Tổng công ty của Nhà nước,  
chuyển trọng tâm đầu tư công ra ngoài lĩnh vực  
kinh tế và kinh doanh.  
Kiến nghị 9: Rà soát và hoàn thiện hệ thống  
pháp luật về đầu tư công, giảm thiểu sự chồng chéo,  
không nhất quán giữa các luật liên quan đến đầu tư  
công, tiến tới ban hành Luật Đầu tư công.  
Hoạt động đầu tư nói chung, bao gồm cả đầu tư  
của Nhà nước, đang được quản lý theo quy định của  
nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau như Luật  
Ngân sách nhà nước, Luật Đầu tư, Luật Xây dựng, Luật  
30  
Đấu thầu, Luật Đất đai, Luật Phòng, chống tham  
nhũng, Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí,  
v.v…Tuy nhiên, hệ thống pháp luật nói trên còn chưa  
hoàn thiện, chồng chéo và thiếu nhất quán19, thể hiện  
trên các phương diện sau:  
Chưa có văn bản pháp luật thống nhất điều  
chỉnh toàn bộ quá trình đầu tư công. Các quy  
định hiện hành nằm ở nhiều văn bản khác nhau  
nên gây khó khăn trong việc thực thi, chưa làm  
được sự khác biệt giữa các quy định pháp luật  
về đầu tư và các quy định pháp luật về xây dựng.  
Chưa xác định rõ ràng và chặt chẽ đối với từng  
nhiệm vụ cụ thể trong quản lý đầu tư công như  
đối tượng và nội dung quản lý trong khâu quy  
hoạch, kế hoạch, chuẩn bị đầu tư, triển khai  
19  
Luật Ngân sách nhà nước quy định chi đầu tư phát triển, trong đó, có đầu tư xây  
dựng các công trình CSHT không có khả năng thu hồi vốn. Tuy nhiên, Luật ngân sách  
nhà nước chỉ quy định kế hoạch ngân sách hàng năm, không có quy định về các  
nguồn vốn dài hạn (3-5 năm) theo các dự án đầu tư, chưa quy định việc sử dụng các  
nguồn vốn nhà nước khác cho đầu tư công như TPCP, vay ODA,… Luật Đầu tư quy  
định về quản lý đầu tư nhằm mục đích kinh doanh, trong đó chỉ điều chỉnh phần vốn  
nhà nước đầu tư cho mục đích kinh doanh, chứ không điều chỉnh phần vốn nhà nước  
đầu tư cho các dự án không nhằm mục đích kinh doanh, không có khả năng hoàn vốn.  
Luật Xây dựng quản lý hoạt động xây dựng đối với các dự án đầu tư có các công trình  
xây dựng, nhưng không bao gồm các nội dung quan trong về quản lý đầu tư như kế  
hoạch đầu tư, phân bổ và quản lý vốn qua các chương trình và dự án đầu tư. Tuy luật  
này có quy định về trình tự, thủ tục lập, thẩm định và phê duyệt các dự án đầu tư xây  
dựng công trình, nhưng các quy định chỉ mang tính nguyên tắc. Luật Đấu thầu quy  
định các hoạt động đấu thầu để lựa chọn nhà thầu cung cấp dịch vụ tư vấn, mua sắm  
hàng hóa, xây lắp đối với các gói thầu của các dự án (từ 30% vốn nhà nước trở lên  
cho đầu tư phát triển; dự án sử dụng vốn nhà nước để mua sắm tài sản), nhưng không  
có quy định về thủ tục lập và trình duyệt dự án đầu tư dùng vốn nhà nước.  
31  

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 48 trang yennguyen 06/07/2024 830
Bạn đang xem 30 trang mẫu của tài liệu "Tái cơ cấu đầu tư công trong bối cảnh đổi mới mô hình tăng trưởng và tái cấu trúc nền kinh tế ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdftai_co_cau_dau_tu_cong_trong_boi_canh_doi_moi_mo_hinh_tang_t.pdf