Chuyên đề tốt nghiệp môn Thanh toán quốc tế

Chuyên đề tốt nghiệp môn  
Thanh toán quốc tế  
MỤC LỤC  
 
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHƯƠNG  
THỨC THANH TOÁN TÍN DỤNG CHỨNG TCHẤT  
LƯỢNG THANH TOÁN PHƯƠNG THỨC TÍN DỤNG  
CHỨNG TỪ (L/C)  
1.1 Thanh toán và phương thức thanh toán tín dụng chứng từ  
(L/C)  
1.1.1 Tổng quan về thanh toán quốc tế  
1.1.1.1 Khái niệm đặc điểm của thanh toán quốc tế  
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu như hiện nay, các mối quan hệ kinh tế,  
chính trị thương mại ngày càng phát triển mạnh mẽ kết quả là hình thành nên các  
khoản thu và chi tiền tệ quốc tế giữa các đối tác các nước khác nhau. Các mối  
quan hệ tiền tệ này ngày một phong phú, đa dạng với quy mô ngày càng lớn. Chúng  
góp phần tạo nên tình hình tài chính của mỗi nước, thể ở trạng thái bội thu hay  
bội chi. Trong các mối quan hệ quốc tế, các đối tác các nước khác nhau, do vậy có  
sự khác nhau về ngôn ngữ, cách xa nhau về địa lý nên việc thanh toán không thể  
tiến hành trực tiếp với nhau mà phải thông qua các tổ chức trung gian, đó chính là  
các ngân hàng thương mại cùng với mạng lưới hoạt động khắp nơi trên thế giới.  
Thanh toán quốc tế đã ra đời từ lâu, nhưng mới chỉ phát triển mạnh mẽ vào  
cuối thế kỷ 20 khi mà khối lượng mua bán, đầu tư quốc tế chuyển tiền quốc tế  
ngày càng gia tăng, từ đó làm cho khối lượng các giao dịch thanh toán qua ngân  
hàng cũng tăng theo. Việc thanh toán qua ngân hàng làm gia tăng việc sử dụng đồng  
     
tiền của các nước để chi trả lẫn nhau. Thanh toán quốc tế đã trở thành một bộ phận  
không thể thiếu trong hoạt động của nền kinh tế của các quốc gia hiện nay.  
Thanh toán quốc tế thể được định nghĩa theo nhiều quan điểm khác nhau. Ở  
đây, xin nêu ra hai định nghĩa tiêu biểu về thanh tóan quốc tế:  
- Theo giáo trình thanh toán quốc tế của trường Đại học Ngân hàng TPHCM:  
“Thanh toán quốc tế việc thực hiện các nghĩa vụ tiền tệ phát sinh từ hoạt động  
mậu dịch và phi mậu dịch giữa các cá nhân, tổ chức tại quốc gia này với các cá  
nhân, tổ chức ở quốc gia khác hoặc giữa một quốc gia với các tổ chức quốc tế  
thông qua hệ thống ngân hàng”.  
- Theo Trầm Thị Xuân Hương (2006): “Thanh toán quốc tế là quá trình thực hiện  
các khoản thu chi tiền tệ quốc tế thông qua hệ thống ngân hàng trên thế giới nhằm  
phục vụ cho các mối quan hệ trao đổi quốc tế phát sinh giữa các nước với nhau”.  
Từ hai định nghĩa trên đây, chúng ta có thể thấy một số đặc điểm của thanh toán  
quốc tế. Trước hết, thanh toán quốc tế diễn ra trên phạm vi toàn cầu, phục vụ các  
giao dịch thương mại, đầu tư, hợp tác quốc tế thông qua mạng lưới ngân hàng thế  
giới.  
Thanh toán quốc tế khác với thanh toán trong nước ở đây nó liên quan đến việc  
trao đổi tiền của quốc gia này để lấy tiền của quốc gia khác. Vì vậy khi ký kết các  
hợp đồng mua bán ngoại thương các bên phải thỏa thuận với nhau về đồng tiền của  
nước nào sẽ đơn vị tiền tệ tính toán và thanh toán trong hợp đồng, đồng thời phải  
tính toán thận trọng để lựa chọn các biện pháp phòng chống rủi ro khi tỷ giá hối  
đoái biến động.  
Tiền tệ trong thanh toán quốc tế thường không phải tiền mặt mà nó tồn tại dưới  
hình thức các phương tiện thanh toán như thư chuyển tiền, điện chuyển tiền, hối  
phiếu, kỳ phiếu và séc ghi bằng ngoại tệ.  
Thanh toán giữa các nước đều được tiến hành thông qua ngân hàng và không  
dùng tiền mặt, nếu có thì chỉ trong những trường hợp riêng biệt. Do vậy thanh toán  
quốc tế về bản chất chính là các nghiệp vụ ngân hàng quốc tế. Chúng được hình  
thành và phát triển trên cơ sở các hợp đồng ngoại thương và các trao đổi tiền tệ  
quốc tế.  
Thanh toán quốc tế được thực hiện dựa trên nền tảng pháp luật tập quán  
thương mại quốc tế, đồng thời cũng bị chi phối bởi luật pháp của các quốc gia,  
bởi các chính sách kinh tế, chính sách ngoại thương và chính sách ngoại hối của các  
quốc gia tham gia trong thanh toán.  
1.1.1.2 Vai trò của thanh toán quốc tế đối với nền kinh tế  
Trong các mối quan hệ thanh toán quốc tế, ngân hàng đóng vai trò trung gian tiến  
hành thanh toán. Nó giúp cho quá trình thanh toán được tiến hành an toàn, nhanh  
chóng và thuận lợi đồng thời giảm thiểu chi phí cho khách hàng. Với sự ủy thác của  
khách hàng, ngân hàng không chỉ bảo vệ quyền lợi cho khách hàng trong các giao  
dịch thanh toán mà còn tư vấn cho họ nhằm tạo nên sự tin tưởng, hạn chế rủi ro  
trong quan hệ thanh toán với các đối tác nước ngoài. Thanh toán quốc tế không chỉ  
làm tăng thu nhập của ngân hàng, mở rộng vốn, đa dạng các dịch vụ mà còn nâng  
cao uy tín của ngân hàng trên thị trường tài chính quốc tế.  
Trong quá trình lưu thông hàng hoá, thanh toán quốc tế là khâu cuối cùng, do vậy  
nếu thanh toán thực hiện nhanh chóng và liên tục, giá trị hàng hoá xuất nhập khẩu  
được thực hiện sẽ có tác dụng thúc đẩy tốc độ thanh toán và giúp các doanh nghiệp  
thu hồi vốn nhanh. Thông qua thanh toán quốc tế còn tạo nên các mối quan hệ tin  
cậy giữa doanh nghiệp và ngân hàng, từ đó thể tạo điều kiện thuận lợi để các  
doanh nghiệp được các ngân hàng tài trợ vốn trong trường hợp doanh nghiệp thiếu  
vốn, hỗ trợ về mặt kỹ thuật thanh toán thông qua việc hướng dẫn, tư vấn cho doanh  
nghiệp, hạn chế thấp nhất rủi ro có thể xảy ra trong quá trình thanh toán với các đối  
tác.  
Thanh toán quốc tế còn có tác dụng khuyến khích các doanh nghiệp kinh doanh  
xuất nhập khẩu gia tăng qui mô hoạt động, tăng khối lượng hàng hoá giao dịch và  
mở rộng quan hệ giao dịch với các nước.  
Về phương diện quản của Nhà nước, thanh toán quốc tế giúp tập trung và quản  
nguồn ngoại tệ trong nước sử dụng ngoại tệ một cách hiệu quả, tạo điều kiện  
thực hiện tốt cơ chế quản ngoại hối của nhà nước, quản hiệu quả các hoạt động  
xuất nhập khẩu theo chính sách ngoại thương đã đề ra.  
 
1.1.1.3 Các phương thức thanh toán quốc tế  
1.1.1.3.1 Phương thức chuyển tiền (Remittance)  
* Khái niệm  
- Phương thức chuyển tiền phương thức mà trong đó khách hàng- người trả  
tiền yêu cầu ngân hàng của mình chuyển một số tiền nhất định cho một người khác-  
người hưởng lợi, ở một địa điểm nhất định bằng phương tiện chuyển tiền do khách  
hàng yêu cầu.  
* Quy trình nghiệp vụ  
(3)  
Ngân hàng  
Ngân hàng đại lý  
chuyển tiền  
(2)  
(4)  
(1)  
Người hưởng lợi  
Người chuyển  
tiền  
Hình 1.1- Trình tự nghiệp vụ thanh toán chuyển tiền  
(1) Giao dịch thương mại.  
(2) Người chuyển tiền viết đơn yêu cầu chuyển tiền (bằng thư hoặc điện) cùng ủy  
nhiệm chi (nếu có tài khoản mở tại Ngân hàng).  
(3) Ngân hàng nhận chuyển tiền ra lệnh cho ngân hàng đại của mình ở nước  
ngoài chuyển tiền cho người hưởng lợi.  
(4) Ngân hàng đại chuyển tiền cho người hưởng lợi.  
* Trường hợp áp dụng  
Do phương thức chuyển tiền mức độ an toàn trong thanh toán thấp, chỉ nên sử  
dụng cho các mối quan hệ giữa các đối tác tin cậy lẫn nhau hoặc quy mô thanh toán  
nhỏ. Trong quan hệ thanh toán mậu dịch, không nên sử dụng trong thanh toán hàng  
xuất khẩu chỉ nên sử dụng trong thanh toán hàng nhập khẩu.  
1.1.1.3.2 Phương thức ghi sổ ( Open Account)  
* Khái niệm:  
     
- Là phương thức người bán mở một tài khoản hoặc một quyển sổ để ghi nợ  
người mua sau khi người bán đã hoàn thành giao hàng hay dịch vụ, đến từng định  
kỳ thể là tháng, quý hoặc năm người mua trả tiền cho người bán.  
Đặc điểm của phương thức này thể hiện đây phương thức thanh toán không có  
sự tham gia của các ngân hàng với chức năng người mở tài khoản, bên người bán  
chỉ mở tài khoản đơn biên, không mở tài khoản song biên. Nếu người mua mở tài  
khoản để ghi, tài khoản ấy chỉ là tài khoản theo dõi, không có giá trị thanh toán giữa  
hai bên.  
* Quy trình nghiệp vụ  
Ngân hàng  
bên bán  
Ngân hàng  
bên mua  
(3)  
(3)  
(2)  
(1)  
Người bán  
Người mua  
Hình 1. 2- Trình tự nghiệp vụ thanh toán ghi sổ.  
(1) Người bán giao hàng hoặc dịch vụ cùng với gửi chứng từ hàng hóa cho người  
mua.  
(2) Bảo nợ trực tiếp giữa người bán và người mua.  
(3) Người mua dùng phương thức chuyển tiền để trả tiền khi đến định kỳ thanh  
toán  
* Trường hợp áp dụng  
Với đặc điểm của phương thức ghi sổ, sẽ phù hợp trong trường hợp nhà nhập  
khẩu khan hiếm ngoại tệ, khi đó họ chấp nhận trả giá cao hơn, đổi lại họ sẽ mua  
được hàng hoá. Nó cũng phù hợp trong các mối quan hệ mua bán hàng đổi hàng  
hoặc hàng bán giao làm nhiều lần. Phương thức này chỉ áp dụng giữa các bên có  
quan hệ mua bán thường xuyên và tin cậy lẫn nhau, giữa nội bộ các công ty với  
nhau, giữa công ty mẹ và công ty con. Nó cũng thể được áp dụng trong các thanh  
toán phi mậu dịch.  
1.1.1.3.3. Phương thức nhờ thu (Collection of Payment)  
* Khái niệm:  
- Phương thức nhờ thu là một phương thức thanh toán trong đó người bán hoàn  
thành nghĩa vụ giao hàng hoặc cung ứng một dịch vụ cho khách hàng ủy thác cho  
ngân hàng của mình thu hộ số tiền ở người mua trên cơ sở hối phiếu của người bán  
lập ra.  
* Quy trình nghiệp vụ  
Trên thực tế, có hai loại nhờ thu là nhờ thu trơn nhờ thu kèm chứng từ.  
- Nhờ thu phiếu trơn (Clean Collection)  
Nhờ thu phiếu trơn phương thức trong đó người bán ủy thác cho ngân hàng thu  
hộ tiền ở người mua căn cứ vào hối phiếu do mình lập ra, còn chứng từ thì gửi  
thẳng cho người mua không qua ngân hàng.  
Trình tự tiến hành nghiệp vụ của nhờ thu phiếu trơn phải trải qua các bước sau  
đây  
(2)  
Ngân hàng phục vụ bên bán  
Ngân hàng phục vụ bên bán  
(4)  
(4)  
Ngân hàng phục vụ bên bán  
(3)  
(1)  
Ngân hàng phục vụ bên bán  
(4)  
Gửi hàng và  
Chứng từ  
Hình 1.3- Trình tự nghiệp vụ thanh toán nhờ thu trơn  
(1) Người bán sau khi gửi hàng và chứng từ gửi hàng cho người mua, lập một hối  
phiếu đòi tiền người mua và ủy thác cho ngân hàng của mình đòi tiền hộ bằng chỉ  
thị nhờ thu.  
(2) Ngân hàng phục vụ bên bán gửi chỉ thị nhờ thu kèm hối phiếu cho ngân hàng  
đại của mình ở nước người mua nhờ thu itền, còn gọi là Ngân hàng phục vụ bên  
mua.  
 
(3) Ngân hàng đại lý yêu cầu người mua trả tiền hối phiếu nếu trả tiền ngay hoặc  
chấp nhận trả tiền hối phiếu nếu mua chịu.  
(4) Ngân hàng đại chuyển tiền thu được cho người bán, nếu chỉ chấp nhận  
hối phiếu thì ngân hàng giữ hối phiếu hoặc chuyển lại cho người bán.  
- Nhờ thu kèm chứng từ (Documnetary Collection)  
Phương thức nhờ thu kèm chứng từ phương thức trong đó người bán ủy thác  
cho ngân hàng thu hộ tiền ở người mua không những căn cứ vào hối phiếu mà còn  
căn cứ vào bộ chứng từ gửi hàng kèm theo với điều kiện nếu người mua trả tiền  
hoặc chấp nhận trả tiền hối phiếu thì ngân hàng mới trao bộ chứng từ gửi hàng cho  
người mua để nhận hàng.  
Trình tự tiến hành nghiệp vụ nhờ thu kèm chứng từ cũng giống như nhờ thu  
phiếu trơn, chỉ khác khâu (1) là lập một bộ chứng từ nhờ ngân hàng thu hộ tiền.  
Bộ chứng từ gồm hối phiếu và các chứng từ gửi hàng kèm theo, khâu (3) là  
ngân hàng đại chỉ trao cho người mua nếu như người mua trả tiền hoặc chấp nhận  
trả tiền hối phiếu. Trong nhờ thu kèm chứng từ, người ủy thác cho ngân hàng ngoài  
việc thu hộ tiền còn nhờ ngân hàng khống chế chứng từ gửi hàng đối với người mua,  
nhờ đó quyền lợi của người bán được đảm bảo hơn. Đây sự khác nhau cơ bản  
giữa nhờ thu kèm chứng từ nhờ thu phiếu trơn.  
(2)  
(4)  
Ngân hàng phục vụ  
Ngân hàng phục vụ  
bên bán  
bên bán  
(3)  
(4)  
(1)  
(4)  
Gửi hàng  
Người mua  
Ngân hàng phục vụ  
bên bán  
Hình 1.4- Trình tự nghiệp vụ thanh toán nhờ thu kèm chứng từ.  
* Trường hợp áp dụng  
- Phương thức nhờ thu phiếu trơn không được áp dụng nhiều trong thanh toán về  
mậu dịch, vì nó không đảm bảo quyền lợi.  
- Trong nhờ thu kèm chứng từ, người ủy thác cho ngân hàng ngoài việc thu hộ  
tiền còn nhờ ngân hàng khống chế chứng từ gửi hàng đối với người mua, nhờ đó  
quyền lợi của người bán được đảm bảo hơn. Tuy vậy, nhờ thu kèm chứng từ một  
số mặt yếu. Người bán chưa khống chế được việc trả tiền của người mua. Người  
mua có thể kéo dài việc trả tiền bằng cách chưa nhận chứng từ hoặc thể không  
trả tiền cũng được khi tình hình thị trường bất lợi với họ. Trong phương thức này  
ngân hàng chỉ đóng vai trò là người trung gian thu tiền hộ còn không có trách nhiệm  
về việc trả tiền của người mua.  
1.1.1.3.4 Phương thức giao chứng từ trả tiến (Cash against  
documents- CAD)  
* Khái niệm:  
phương thức thanh toán trong đó nhà nhập khẩu yêu cầu ngân hàng mở tài  
khoản tín thác để thanh tóan tiền cho nhà xuất khẩu khi nhà xuất khẩu trình đầy đủ  
những chứng từ theo yêu cầu. Nhà xuất khẩu sau khi hòan thành nghĩa vụ giao hàng  
sẽ xuất trình bộ chứng từ cho ngân hàng để nhận tiền thanh toán.  
* Quy trình nghiệp vụ  
(2)  
Người xuất khẩu  
(3)  
Người nhập khẩu  
(1)  
(4)  
(5)  
Ngân hàng  
Hình 1.5- Trình tự nghiệp vụ thanh toán giao chứng từ trả tiền.  
(1) Sau khi ký hợp đồng mua bán ngoại thương, nhà nhập khẩu đến ngân hàng  
phục vụ mình yêu cầu thực hiện dịch vCAD.  
(2) Sau khi kiểm tra các điều kiện của tài khỏan tín thác, nếu chấp nhận, nhà xuất  
khẩu giao hàng cho người vận tải để chuyển đến nơi nhà nhập khẩu yêu cầu.  
(3) Nhà xuất khẩu sau khi tiến hành giao hàng thì xuất trình những chứng từ yêu  
cầu.  
 
(4) Ngân hàng tiến hành kiểm tra chứng từ theo yêu cầu, nếu thấy phù hợp sẽ tiến  
hành ghi Có cho người xuất khẩu và ghi Nợ tài khoản quỹ của người nhập khẩu,  
sau khi đã thu phí dịch vụ ngân hàng.  
(5) Ngân hàng giao chứng từ lại cho nhà nhập khẩu.  
* Trường hợp áp dụng: Người mua và người bán có mối quan hệ bạn hàng tốt  
và thân tín, người nhập khẩu phải đặc biệt tin tưởng ở nhà xuất khẩu. Khi bán  
những mặt hàng khan hiếm trên thị trường người xuất khẩu muốn đảm bảo  
chắc chắn trong thanh toán.  
Trong các phương thức thanh toán quốc tế thì phương thức tín dụng chứng từ là  
phương thức được sử dụng hầu hết hiện nay nhờ vào tính chặt chẽ và an toàn của  
nó cho người mua, người bán, cũng như cho đối tượng trung gian là ngân hàng. Vì  
vậy, phương thức tín dụng chứng từ sẽ được trình bày một cách cụ thể và rõ ràng  
hơn ở mục lớn tiếp theo.  
1.1.2 Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ  
1.1.2.1 Khái niệm  
- Phương thức tín dụng chứng từ một sự thỏa thuận, trong đó một ngân hàng  
(ngân hàng mở thư tín dụng) theo yêu cầu của khách hàng (người yêu cầu mở thư  
tín dụng) sẽ trả một số tiền nhất định cho một người khác (người hưởng lợi số tiền  
của thư tín dụng) hoặc chấp nhận hối phiếu do người này ký phát trong phạm vi số  
tiền đó khi người này xuất trình cho ngân hàng một bộ chứng từ thanh toán phù hợp  
với những quy định đề ra trong thư tín dụng.  
1.1.2.2 Quy trình nghiệp vụ  
(2)  
(5)  
Ngân hàng thông  
báo L/C  
Ngân hàng mở L/C  
(6)  
(4)  
(7) (1)  
Người nhập khẩu  
(6) (5)  
(8)  
(3)  
Người xuất khẩu  
     
Hình 1.6- Trình tự nghiệp vụ thanh toán tín dụng chứng từ  
(1) Người nhập khẩu làm đơn xin mở thư tín dụng gửi đến ngân hàng của mình  
yêu cầu mở một thư tín dụng cho người xuất khẩu hưởng.  
(2) Căn cứ vào đơn xin mở thư tín dụng, ngân hàng mở thư tín dụng sẽ lập một  
thư tín dụng và thông qua ngân hàng đại của mình ở nước người xuất khẩu thông  
báo việc mở thư tín dụng chuyển thư tín dụng đến người xuất khẩu.  
(3) Khi nhận được thông báo này, ngân hàng thông báo sẽ thông báo cho người  
xuất khẩu toàn bộ nội dung thông báo về việc mở thư tín dụng đó, khi nhận được  
bản gốc thư tín dụng thì chuyển ngay cho người xuất khẩu.  
(4) Người xuất khẩu nếu chấp nhận thư tín dụng thì tiến hành giao hàng, nếu  
không đề nghị ngân hàng mở L/C sửa đổi, bổ sung thư tín dụng cho phù hợp với  
hợp đồng.  
(5) Sau khi giao hàng, người xuất khẩu lập bộ chứng từ theo yêu cầu của thư tín  
dụng xuất trình thông qua ngân hàng thông báo cho ngân hàng mở thư tín dụng xin  
thanh toán.  
(6) Ngân hàng mở thư tín dụng kiểm tra bộ chứng từ, nếu thấy phù hợp với thư  
tín dụng thì tiến hành trả tiền cho người xuất khẩu. Nếu thấy không phù hợp, ngân  
hàng từ chối thanh toán và gửi trả lại toàn bộ chứng từ cho người xuất khẩu.  
(7) Ngân hàng mở thư tín dụng đòi tiền người nhập khẩu chuyển bộ chứng từ  
cho người nhập khẩu sau khi nhận được tiền hoặc chấp nhận thanh toán.  
(8) Người nhập khẩu kiểm tra chứng từ, nếu thấy phù hợp với thư tín dụng thì  
hoàn trả tiền lại cho ngân hàng mở thư tín dụng, nếu không thì có quyền từ chối trả  
tiền.  
1.1.2.3 Các loại thư tín dụng.  
1.1.2.3.1 Thư tín dụng thể hủy bỏ (Revocable letter of Credit)  
* Đặc điểm: Ngân hàng mở L/C và nhà nhập khẩu thể sửa đổi, bổ sung hoặc  
hủy bỏ L/C bất cứ lúc nào mà không cần báo trước cho người hưởng lợi L/C.  
   
* Ưu điểm: Đối với những hợp đồng mua bán không chắc chắn, không đầy đủ  
thì thư tín dụng thể hủy bỏ sẽ tạo điều kiện bổ sung, hoàn thiện hợp đồng. Đối  
với những nhà xuất khẩu không đủ tin cậy, sẽ bảo vệ quyền lợi nhà nhập khẩu.  
* Nhược điểm: Không đảm bảo quyền lợi nhà xuất khẩu vì lúc này L/C chỉ lời  
hứa trả tiền, không phải sự cam kết, như vậy dễ gây thiệt hại cho nhà xuất khẩu.  
Bảo hộ quá nhiều cho nhà nhập khẩu, kể cả trường hợp nhà nhập khẩu không đủ  
khả năng thanh toán cũng thể tự động hủy bL/C.  
1.1.2.3.2 Thư tín dụng không thể hủy ngang (Irrevocable letter  
of Credit)  
* Đặc điểm: Sau khi thư tín dụng đã được mở và thông báo cho người bán thì  
không được sửa đổi, bổ sung hay hủy bỏ nó trong thời gian hiệu lực của thư tín  
dụng, trừ trường hợp sự đồng ý của các bên có liên quan.  
* Ưu điểm: Đảm bảo quyền lợi cho nhà xuất khẩu. Ràng buộc trách nhiệm của  
các bên liên quan, đảm bảo hợp đồng sẽ được thực hiện.  
* Nhược điểm: Trường hợp có sai sót khi mở L/C hoặc muốn bổ sung vào L/C  
thì phải sự đồng ý của các bên hoặc mở 1 L/C khác.  
1.1.2.3.3 Thư tín dụng không thể hủy ngang có xác nhận  
(Confirmed irrevocable letter of Credit)  
* Đặc điểm: loại thư tín dụng không hủy ngang, đồng thời có thêm một ngân  
hàng thứ ba có uy tín đứng ra xác nhận L/C này, đảm bảo thanh toán cho nhà xuất  
khẩu.  
* Ưu điểm: Đảm bảo lớn nhất quyền lợi của nhà xuất khẩu do có một ngân hàng  
uy tín cam kết thanh toán. Tăng uy tín cho nhà nhập khẩu và ngân hàng mở L/C để  
nhà xuất khẩu yên tâm xuất hàng.  
* Nhược điểm: Ngân hàng mở L/C phải trả thủ tục phí xác nhận rất cao, có thể  
lên đến 1% trị giá L/C và đặt cọc tiền quỹ có khi tới 100% trị giá L/C cho ngân  
hàng xác nhận. Rủi ro lớn cho ngân hàng xác nhận, ngân hàng này phải kiểm tra  
khả năng thanh toán, độ tin cậy của ngân hàng mở L/C.  
   
1.1.2.3.4 Thư tín dụng không thể hủy ngang miễn truy đòi:  
(Irrevocable without recource letter of Credit)  
* Đặc điểm: Sau khi nhà xuất khẩu đã được trả tiền thì ngân hàng mở L/C không  
quyền đòi lại tiền nhà xuất khẩu trong bất cứ trường hợp nào.  
* Ưu điểm: Đảm bảo quyền lợi cho nhà xuất khẩu trong trường hợp đã nhận  
được tiền.  
* Nhược điểm: Bảo hộ cho nhà xuất khẩu, khi vô tình xảy ra sai sót trong việc  
kiểm tra chứng từ hoặc nhà xuất khẩu dùng thủ đoạn lừa đảothì ngân hàng không  
lấy lại được tiền đã thanh toán.  
1.1.2.3.5 Thư tín dụng chuyển nhượng (Transferable letter of  
Credit)  
* Đặc điểm: Người hưởng lợi đầu tiên của L/C này có quyền chuyển nhượng  
một phần hay toàn bộ số tiền của L/C cho một hay nhiều người nhưng chỉ được  
phép chuyển nhượng một lần mà thôi.  
* Ưu điểm: Thư tín dụng chuyển nhượng giúp cho những nhà xuất khẩu không  
vốn lớn hoặc không đủ khả năng xuất trực tiếp được hưởng khoản chêch lệch do  
xuất khẩu gián tiếp, đồng thời với L/C này nhà xuất khẩu trung gian có thể không  
cho bên xuất khẩu trực tiếp nhập khẩu biết về nhau. Đối với những nhà xuất  
khẩu nhỏ, lẻ không tự mình tìm được đối tác thì thông qua L/C này tìm được đơn  
hàng xuất.  
* Nhược điểm: Thư tín dụng chuyển nhượng khá phức tạp nhiều bên liên  
quan, và các điều khoản phải quy định rõ trong L/C. Nhà nhập khẩu phải trả một  
khoản tiền lớn hơn và nhà xuất khẩu trực tiếp cũng thể mất một khoản tiền do  
phải qua trung gian.  
   
1.1.2.3.6 Thư tín dụng giá (Back to back letter of Credit)  
* Đặc điểm: Được nhà xuất khẩu trung gian mở dựa vào 1 L/C gốc khác nhưng  
L/C giáp lưng khác L/C gốc ở chỗ: Số chứng từ của L/C giáp lưng phải nhiều hơn  
L/C gốc. Trị giá của L/C giáp lưng phải nhỏ hơn L/C gốc, khoản chêch lệch này do  
người trung gian hưởng, để trả chi phí mở L/C và phần hoa hồng của họ. Thời gian  
giao hàng của L/C phải sớm hơn L/C gốc.  
Một số điểm khác biệt của L/C giáp lưng so với L/C thông thường: Ngoài hối  
phiếu và hóa đơn ra, các chứng từ không ghi đơn giá và trị giá. Một số chứng từ  
(B/L, giấy giám định hàng hóa…) phải ghi dẫn chiếu số L/C gốc.  
* Ưu điểm: Thông qua L/C giáp lưng người trung gian đuợc hưởng khoản chêch  
lệch mà không cho người thụ hưởng L/C gốc biết đơn giá, trị giá và phần chêch lệch  
đó. Rất phù hợp với mua bán qua trung gian.  
* Nhược điểm: L/C giáp lưng rất phức tạp, đòi hỏi sự kết hợp khéo léo và chính  
xác những điều kiện của L/C gốc và L/C giáp lưng, nhất là các vấn đề liên quan đến  
vận đơn và các chứng từ hàng hóa khác.  
1.2 Chất lượng thanh toán phương thức tín dụng chứng từ  
1.2.1 Chất lượng  
1.2.1.1 Chất lượng là gì  
1.2.1.1.1 Quan niệm chung về chất lượng  
rất nhiều định nghĩa khác nhau về chất lượng:  
- “Chất lượng tổng thể những tính chất, thuộc tính cơ bản của sự vật (sự  
việc)...làm cho sự vật (sự việc) này phân biệt với sự vật (sự việc) khác”. (Theo từ  
điển Tiếng Việt phổ thông)  
- “Chất lượng nghĩa chất lượng trong công việc, chất lượng trong dịch vụ,  
chất lượng thông tin, chất lượng của quá trình, chất lượng của các bộ phận, chất  
lượng của con người, kể cả công nhân, kỹ sư, giám đốc và viên chức điều hành, chất  
lượng của công ty, chất lượng của các mục tiêu. Chất lượng sự thỏa mãn nhu cầu  
thị trường với chi phí thấp nhất”. (Theo Kaoru Ishikawa)  
         
- “Chất lượng tiềm năng của một sản phẩm hay dịch vụ nhằm thỏa mãn nhu  
cầu người sử dụng”. (Theo tiêu chuẩn Pháp NF X50- 109)  
- “Chất lượng tổng hợp các đặc tính của một thực thể (đối tượng) tạo cho thực  
thể (đối tượng) đó khả năng thỏa mãn những nhu cầu đã nêu ra hoặc tiềm ẩn”.  
(ISO 8402, TCVN 5814)  
Vấn đề chất lượng một vấn đề mang xu hướng hiện đại ngày nay, là một nhân  
tố không thể thiếu bất kỳ tổ chức hay cá nhân kinh doanh nào cũng phải hướng  
đến nhằm giữ vững vị thế của mình. Toàn cầu hóa và hội nhập đã kéo theo nhu cầu  
trong xã hội ngày càng gia tăng sự cạnh tranh gay gắt đã trở thành dòng chính  
của quy luật “thị trường”. Hội nhập một vấn đề tất yếu và không một quốc gia  
nào có thể đứng ngoài cuộc, nhưng càng hội nhập, chúng ta lại càng phải đối đầu  
với thách thức về “Chất lượng”. Chất lượng ngày nay không còn đơn thuần một  
vấn đề kỹ thuật mà nó đã trở thành một vấn đề mang tính chiến lược hàng đầu và  
liên quan đến sự sống còn của tất cả các tổ chức khác nhau.  
Vấn đề chất lượng được các quốc gia và tổ chức trên toàn thế giới ngày càng  
quan tâm nhiều hơn từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai đến nay và tiên phong là  
các doanh nghiệp Nhật Bản trong lĩnh vực công nghiệp công nghệ cao. Sản phẩm  
của các doanh nghiệp hàng đầu của Nhật Bản đã được khách hàng trên mọi châu lục  
tiếp nhận đánh giá cao vì chất lượng tốt và giá thành hạ. Các doanh nghiệp thuộc  
mọi quốc gia trên thế giới không có lựa chọn nào khác, họ buộc phải chấp nhận  
cuộc cạnh tranh. Muốn tồn tại và phát triển, các tổ chức phải giải quyết khá nhiều  
yếu tố, và trong đó, chất lượng một yếu tố then chốt.  
Hiện nay, đối với các nước công nghiệp đang phát triển, các nguồn lực tự  
nhiên đã không còn là chiếc chìa khóa đem lại sự phồn vinh. Lịch sử hiện đại đã  
chứng tỏ một quốc gia không có lợi thế về tài nguyên vẫn thể trở thành một quốc  
gia hàng đầu về chất lượng quản chất lượng.  
Tại các nước đang phát triển, chất lượng được biết đến vừa một thách thức và  
cũng vừa một cơ hội. cơ hội, người tiêu dùng ngày nay trên mọi quốc gia  
ngày càng quan tâm đến chất lượng hàng hóa và dịch vụ họ bỏ tiền ra mua. Là  
thách thức, vì các tổ chức trong các quốc gia phát triển đã tiến rất xa trong việc  
cung cấp sản phẩm dịch vụ chất lượng tốt, đòi hỏi các tổ chức phải thay  
đổi cách suy nghĩ, thay đổi cách quản đã hình thành từ lâu đời để tiếp cận với nền  
văn minh hiện đại toàn cầu.  
1.2.1.1.2 Quản chất lượng tại Việt Nam  
Hội nhập kinh tế và toàn cầu hóa đang là xu thế tất yếu của mọi nền kinh tế,  
trong đó Việt Nam. Thách thức lớn nhất trong quá trình hội nhập của Việt Nam  
chính là hiệu quả năng lực cạnh tranh còn yếu kém về năng suất chất lượng sản  
phẩm so với các nước khác trong khu vực.  
Trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ngày nay, chất lượng đang trở  
thành một nhân tố cơ bản để quyết định sự thắng bại trong cạnh tranh, quyết định sự  
tồn tại của các tổ chức kinh tế.  
Đầu những năm 1990, các quan nhà nước cũng như các cơ sở sản xuất kinh  
doanh đã thực hiện những cải tiến bước đầu về quản chất lượng. Tuy nhiên quá  
trình quản chất lượng này gặp nhiều khó khăn trở ngại do cơ sở vật chất- kỹ  
thuật còn thiếu thốn lạc hậu lúc bấy giờ. Qua những giai đoạn khó khăn ban đầu,  
trong xu thế mới của thời đại mới, tình hình quản chất lượng ở Việt Nam đã được  
chú trọng, chất lượng sản phẩm dịch vụ đã được nâng cao đáng kể để chiếm lĩnh thị  
trường, được người tiêu dùng tín nhiệm. Và có thể nói, chất lượng chính là lời giải  
đáp duy nhất cho các tổ chức kinh tế Việt Nam trong xu thế tự do thương mại toàn  
cầu ngày nay.  
1.2.1.2 Quản chất lượng trong lĩnh vực ngân hàng theo quan  
điểm hiện đại  
Theo ông Rene T. Domingo, Giáo sư Học viện Quản trị Châu Á (Asian Institute  
of Management), Tổng giám đốc Công ty Business Recovery and Turn-around Inc.,  
tác giả của cuốn sách nổi tiếng trong lĩnh vực quản trị chất lượng “Quality Means  
Survival”.  
Hầu hết các nhà ngân hàng đều cho rằng ngân hàng là loại công nghiệp tài chính  
   
chứ không phải là công nghiệp dịch vụ. thế, khuynh hướng cạnh tranh của họ  
dựa trên năng lực về tài chính nhiều hơn chất lượng dịch vụ. Họ dành hết nguồn  
nhân lực, vật lực, thời gian và hệ thống cho việc quản lý tài chính hơn quản lý  
khách hàng và công tác phục vụ. Trong thực tế thì hầu hết các chương trình ứng  
dụng được thiết kế để kiểm soát thay vì để thỏa mãn khách hàng. Người ta thiết  
kế ra sản phẩm ngân hàng và quy trình để tạo sự thuận tiện cho ngân hàng hơn là  
cho khách hàng. Một ngân hàng lớn thể đến ba vị phó tổng giám đốc chịu  
trách nhiệm về việc quản lý tài sản ngân hàng nhưng lại không có ai phụ trách lĩnh  
vực liên quan đến công tác phục vụ khách hàng và xử lý than phiền. Việc tổ chức  
phục vụ và làm cho khách hàng hài lòng thường được các ngân hàng xếp vào hàng  
thứ yếu và do đó, công việc này, nếu có, sẽ phân công cho một người trưởng phòng  
cấp thấp hoặc lương thấp. Hiếm khi thấy được một ngân hàng có được một cơ cấu  
tổ chức tinh vi để thực hiện việc phục vụ khách hàng và duy trì quan hệ lâu dài bền  
chặt với khách hàng.  
Mạch sống của mọi ngành nghề kinh doanh chính là khách hàng. Lợi nhuận có  
được từ doanh thu trừ chi phí. Doanh số được quan tâm trước và chi phí phát sinh  
liên quan thì sau. Khách hàng là người quyết định doanh số dựa trên sự nhận thức  
của họ về chất lượng của sản phẩm sự phục vụ. Nói khác đi, chất lượng quyết  
định lợi nhuận và chính khách hàng là người xác định quyết định chất lượng là gì  
cần phải như thế nào. Sau sự thành công của các phong trào quản chất lượng,  
như Quản chất lượng toàn diện trong lĩnh vực sản xuất, thì các chuỗi cửa hàng  
bán thức ăn nhanh, hãng hàng không, khách sạn, siêu thị và các ngành dịch vụ khác  
bắt đầu nhìn nhận chất lượng là lý do tồn tại của mình. Ngân hàng và các định chế  
tài chính khác như công ty bảo hiểm quỹ đầu tư thì tương đối chậm chạp trong  
việc chuyển hướng sang mô hình khách hàng là trên hết. Về phương diện lịch sử thì  
người ta quan niệm ngân hàng là một hệ thống kiểm soát phức tạp vì ngân hàng  
kinh doanh loại tài sản có tính thanh khoản cao nhất: tiền mặt. Ngân hàng phải duy  
trì hình ảnh, tiếng tăm và uy tín để thực hiện vai trò của người cầm giữ tiền bạc của  
người khác. Theo thời gian, các hệ thống quản phức tạp nạn quan liêu hình  
thành dưới danh nghĩa tăng cường kiểm soát đã khiến ngân hàng xao nhãng và hy  
sinh việc phục vụ khách hàng trong quá trình giao dịch.  
Quản chất lượng toàn diện, là công tác phục vụ khách hàng về mọi mặt và liên  
tục làm thỏa mãn khách hàng, được áp dụng không chỉ ở lĩnh vực sản xuất mà còn ở  
lĩnh vực dịch vụ, lĩnh vực mà khách hàng cũng quan trọng không kém.  
Trong thực tế, khách hàng thuộc lĩnh vực dịch vụ thì nhạy cảm đối với chất  
lượng dịch vụ sự chuyển giao dịch vụ hơn trong lĩnh vực sản xuất vì khách hàng  
luôn tiếp xúc với nhân viên trực tiếp phục vụ tại quầy, điều này không có ở lĩnh  
vực sản xuất. Những tiếp xúc ngay tại điểm bán hàng hay còn gọi “khỏanh khắc  
sự thật” (moments of truth) sẽ quyết định việc khách hàng có trở lại giao dịch hay  
không hoặc khách hàng sẽ chuyển qua giao dịch với một đối thủ cạnh tranh bán  
hàng gần đó. Ngân hàng thường là ngành dịch vụ lớn nhất ở mọi quốc gia, được  
hưởng lợi từ Quản chất lượng toàn diện. Chỉ một lý do đơn giản là: sự thịnh  
vượng của các ngân hàng tùy thuộc vào sự thỏa mãn và mức độ gắn của khách  
hàng, nhưng trớ trêu thay, rất ít ngân hàng quan tâm nhiều đến hoàn cảnh của khách  
hàng trước, trong và sau khi bán hàng.  
Nhiều ngân hàng được các nhà tài chính quản lý, mà nhà tài chính là người ít  
được đào tạo hoặc không được đào tạo về công tác phục vụ khách hàng. Dịch vụ tốt  
không phải tự nhiên hoặc do tình cờ mà có. Dịch vụ chỉ tốt khi nào được hoạch định  
quản lý. Không được hoạch định, thì dịch vụ tồi đương nhiên sẽ xảy ra.  
Một chuyên gia hàng đầu về lĩnh vực chất lượng, Tiến sĩ W. Edwards Deming,  
nói rằng muốn cải tiến chất lượng phục vụ thì phải kiến thức sâu về hệ thống  
chuyển giao dịch vụ. Các ông chủ ngân hàng lại có suy nghĩ rằng tiền bạc chứ  
không phải khách hàng mới là quan trọng.  
Hiện nay, các ngân hàng đang được xếp hạng, so sánh với nhau và được đánh giá  
sự thành công thông qua quy mô, nguồn lực tài chính, và những số đo định lượng  
khác như tổng tài sản, số lượng máy ATM, số lượng giao dịch, số lượng người gửi  
tiền, số tiền vay đã giải ngân,..., vốn rất khó cho thấy chất lượng phục vụ khách  
hàng ra sao. Các vị lãnh đạo ngân hàng chủ yếu quan tâm đến việc quản lý tài sản  
(càng lớn càng tốt), quản lưu chuyển tiền tệ, quản lề sinh lời (càng rộng càng  
tốt), quản lý tài sản nợ và tài sản có, và phân tích các tỷ số tài chính.  
ngân hàng thường thì chất lượng dịch vụ thường khác nhau ở mỗi chi nhánh, ở  
mỗi điểm cung ứng các vị giám đốc chi nhánh. Vấn đề thêm nặng nề khi hội sở  
lại xếp hạng thăng tiến cho các vị giám đốc chi nhánh dựa trên công việc kinh  
doanh thuần tuý mà chi nhánh đã mang lại: các khoản cho vay đã giải ngân, các  
khoản lãi đã thu được khoản tiền gửi được huy động. Các vị giám đốc này ít khi  
nào được đánh giá dựa trên tiêu chí thỏa mãn của khách hàng, chất lượng phục vụ  
những vụ việc khiếu nại của khách hàng. Chẳng có gì phải thắc mắc cả khi các vị  
giám đốc chi nhánh này chẳng hề quan tâm đến chất lượng phục vụ khách hàng vì  
nó không có một ảnh hưởng nào đến việc đánh giá hoạt động của chi nhánh.  
Đối với khách hàng, tính thân thiện thì quan trọng không kém gì tính hiệu quả.  
Rất nhiều ngân hàng đã lơ đi các nguyên tắc cơ bản trong nghệ thuật kinh doanh và  
cung cấp dịch vụ: không một lời chào hỏi khi gặp khách hàng, không một lời cảm  
ơn sau bất kỳ một giao dịch nào hoặc sau mỗi lần giao dịch, chẳng thèm nhìn khách  
hàng, không một lời xin lỗi khi khách hàng buộc phải chờ đợi.  
Qua những quan niệm trên, ta có thể thấy, chất lượng trong lĩnh vực ngân hàng  
hiện đại ngày nay, đó chính là chất lượng phục vkhách hàng. Phục vụ khách hàng  
tốt sẽ góp phần tạo lòng tín nhiệm, thu hút khách hàng về với khách hàng. Và trong  
đó, việc tiếp tục nâng cao những chất lượng trong nghiệp vụ cũng chính là một  
phần quan trọng then chốt hướng tới chất lượng chăm sóc khách hàng tốt hơn.  
1.2.2 Chất lượng thanh toán phương thức tín dụng chứng từ  
1.2.2.1 Thế nào là chất lượng thanh toán tín dụng chứng từ?  
Một sản phẩm làm ra được xem là có chất lượng khi nó phải thỏa mãn trước hết  
là nhu cầu của khách hàng một cách chính đáng về chất về lượng thỏa mãn  
một số tiêu chuẩn nhất định về mặt kỹ thuật, sau đó phải đáp ứng đòi hỏi về thu  
nhập của người sản xuất. Không một nhà sản xuất nào muốn cung cấp sản phẩm  
đem lại thu nhập thấp hoặc không có thu nhập trừ những chương trình trợ giúp của  
   
Chính phủ. dụ, một sản phẩm là bóng đèn, sẽ được người tiêu dùng đánh giá  
là có chất lượng khi nó có thể được sử dụng trong thời gian dài, độ sáng phù hợp,  
không làm ảnh hưởng đến mắt người tiêu dùng. Ngoài ra còn có các yếu tố khác tác  
động như: giá cả, hình thức sản phẩm, sự thuận tiện trong việc lắp ráp, sử dụng…  
Thế thì chất lượng thanh toán tín dụng chứng từ là gì? Chất lượng thanh toán tín  
dụng chứng từ những chất lượng trong nghiệp vụ, thỏa mãn nhu cầu cao nhất của  
khách hàng đồng thời cũng thu lại giá trị hiện kim cho ngân hàng được thể hiện  
xuyên suốt từ khâu ngân hàng phát hành nhận được yêu cầu xin mở L/C từ phía nhà  
nhập khẩu cho đến khi trả tiền xong cho nhà xuất khẩu và thu hồi lại vốn từ phía  
nhà nhập khẩu.  
1.2.2.2 Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng thanh toán tín dụng chứng từ  
1.2.2.2.1 L/C được mở vào thời điểm hợp lý và có nội dung phù hợp  
Khi nhận được đơn đề nghị mở L/C do người nhập khẩu gửi đến, ngân hàng phục  
vụ nhà nhập khẩu (được gọi là ngân hàng phát hành) sẽ xem xét để tiến hành mở  
L/C theo yêu cầu của nhà nhập khẩu.  
- Về mặt thời gian: ngân hàng phát hành phải đảm bảo mở được L/C vào đúng  
thời điểm mà nhà xuất khẩu nhập khẩu đã thỏa thuận trong hợp đồng thương mại.  
Điều này không chỉ giúp cho khách hàng của ngân hàng là nhà nhập khẩu tạo được  
sự tin tưởng đối với nhà xuất khẩu mà ngân hàng phát hành còn gây được thiện cảm,  
tạo được uy tín đối với cả hai bên nhập khẩu xuất khẩu về trách nhiệm của ngân  
hàng với vai trò là một chủ thể tham gia trong quy trình thanh toán.  
-Về mặt nội dung: ngân hàng phát hành phải đảm bảo L/C có nội dung dễ hiểu,  
thể hiện được hết những thỏa thuận trong hợp đồng thương mại, đồng thời những  
điều khoản điều kiện của L/C cũng phải hết sức chặt chẽ, không có kẽ hở để nhà  
xuất khẩu không thể lợi dụng, làm ảnh hưởng đến quyền lợi của nhà nhập khẩu và  
thể cả quyền lợi của chính ngân hàng. Mặt khác, các điều kiện đưa ra đối với nhà  
xuất khẩu cũng không nên quá khắt khe, ảnh hưởng đến quyền lợi của nhà xuất  
khẩu hoặc đến uy tín của ngân hàng.  
1.2.2.2.2 Ngân hàng thông báo kiểm tra chính xác tính chân thật bề ngoài  
của L/C và nhanh chóng chuyển L/C nhận được từ ngân hàng phát hành cho  
người xuất khẩu  
Sau khi phát hành L/C, ngân hàng phát hành sẽ chuyển L/C cho ngân hàng phục  
vụ người xuất khẩu (gọi là ngân hàng thông báo). Khi nhận được L/C do ngân hàng  
phát hành chuyển tới, ngân hàng thông báo kiểm tra tính chân thật bề ngoài của L/C  
trước khi thông báo cho người xuất khẩu. Nếu L/C không chân thật mà ngân hàng  
thông báo không xác minh được sẽ đẩy nhà xuất khẩu đến rủi ro giao hàng mà  
không được thanh toán. Sau khi kiểm tra xong, ngân hàng thông báo phải nhanh  
chóng chuyển nguyên trạng L/C cho nhà xuất khẩu, tạo điều kiện để nhà xuất khẩu  
thể thực hiện nhanh chóng hợp đồng.  
1.2.2.2.3 Tính hoàn hảo của bộ chứng từ do nhà xuất khẩu lập chất lượng  
công tác tư vấn lập chứng từ của ngân hàng thông báo đối với nhà xuất khẩu  
Căn cứ vào L/C do ngân hàng thông báo chuyển đến, nhà xuất khẩu sẽ tiến hành  
giao hàng và lập chứng từ. Việc nhà xuất khẩu được thanh toán hay không sẽ  
phụ thuộc vào chất lượng bộ chứng từ do nhà xuất khẩu xuất trình. Nhà xuất khẩu  
xuất trình bộ chứng từ tại ngân hàng thông báo, nhờ thu hộ tiền từ phía nhà nhập  
khẩu. Lúc này, ngân hàng thông báo sẽ giúp nhà xuất khẩu kiểm tra bộ chứng từ, tư  
vấn cho nhà xuất khẩu sửa chữa những sai sót và có được bộ chứng từ hoàn hảo.  
Nhờ đó, ngân hàng phát hành không thể từ chối thanh toán và nhà xuất khẩu thể  
nhanh chóng thu được tiền hàng. Nếu bộ chứng từ do nhà xuất khẩu xuất trình có  
lỗi sẽ bị ngân hành phát hành từ chối thanh toán và yêu cầu lập lại bộ chứng từ.  
Việc này kéo dài sẽ dẫn đến việc nhà xuất khẩu thể không xuất trình được bộ  
chứng từ trong thời hạn quy định và do đó mất quyền được thanh toán.  
1.2.2.2.4 Ngân hàng phát hành thực hiện tốt trách nhiệm của mình khi tiếp  
nhận bộ chứng thàng hóa từ phía người xuất khẩu  
Nhận được bộ chứng từ từ phía nhà xuất khẩu, ngân hàng phát hành phải nhanh  
chóng kiểm tra kỹ bộ chứng từ. Việc kiểm tra cẩn thận bộ chứng từ sẽ giúp ngân  
hàng phát hiện ra sai sót của bộ chứng từ từ đó quyết định tới việc có thanh toán  
cho nhà xuất khẩu hay không. Nếu ngân hàng kiểm tra không cẩn thận, không phát  
hiện ra sai sót của bộ chứng từ sẽ làm thiệt hại tới quyền lợi của nhà nhập khẩu,  
thậm chí trong trường hợp nhà nhập khẩu phát hiện ra sai sót khi kiểm tra bộ chứng  
từ trước đó ngân hàng đã thanh toán cho người xuất khẩu thì ngân hàng phát  
hành sẽ phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về việc thanh toán đó của mình. Nhà nhập  
khẩu quyền từ chối trách nhiệm thanh toán cho bộ chứng từ đó.  
Việc kiểm tra bộ chứng từ phải được thực hiện cẩn thận, kỹ càng nhưng phải  
khẩn trương trong thời hạn 5 ngày làm việc của ngân hàng (theo quy định của UCP  
600). Nếu để quá thời hạn trên, cho dù phát hiện bộ chứng từ không phù hợp với  
các điều khoản điều kiện quy định trong L/C, nhưng ngân hàng phát hành không  
thông báo kịp cho ngân hàng thông báo/ nhà xuất khẩu thì ngân hàng phát hành sẽ  
mất quyền từ chối thanh toán bộ chứng từ đó.  
Sau khi kiểm tra và phát hiện ra lỗi của bộ chứng từ, ngân hàng phát hành thông  
báo những bất hợp lệ cho nhà xuất khẩu từ chối thanh toán. Ngân hàng phát hành  
không có quyền trao chứng từ cho nhà nhập khẩu nếu như không có sự đồng ý của  
nhà xuất khẩu. Nếu ngân hàng phát hành vi phạm điều này, người xuất khẩu hoàn  
toàn có thể kiện ngân hàng phát hành và ngân hàng phát hành sẽ phải đền thiệt  
hại kinh tế cho người xuất khẩu nếu người xuất khẩu chứng minh được điều đó đã  
gây thiệt hại cho họ. Chính vì vậy, sau khi từ chối thanh toán cho nhà xuất khẩu,  
ngân hàng phát hành phải giữ nguyên trạng bộ chứng từ, thông báo cho nhà nhập  
khẩu biết bộ chứng từ bất hợp lệ thực hiện theo chỉ thị của nhà nhập khẩu.  
Nếu như bộ chứng từ không có sai sót hoặc trong trường hợp có sai sót nhưng đã  
được nhà nhập khẩu chấp nhận, ngân hàng phát hành phải nhanh chóng tiến hành  
thanh toán cho phía xuất khẩu và trao bộ chứng từ cho bên nhập khẩu bởi vì sau khi  
đã giao hàng thì nhà xuất khẩu mong sớm nhận được tiền hàng, còn nhà nhập khẩu  
thì mong nhận được chứng từ để đi nhận hàng.  
1.2.2.2.5 Ngân hàng phát hành nhanh chóng thu được tiền hàng từ phía  
người nhập khẩu  
Rõ ràng quá trình thanh toán có hiệu quả hay không thể hiện ở chỗ sau khi trả  
tiền cho nhà xuất khẩu, Ngân hàng phát hành có thu lại được tiền từ nhà nhập khẩu  
hay không. Ngoại trừ những trường hợp mất khả năng thanh toán hay cố tình lừa  
gạt ngân hàng, còn lại các nhà nhập khẩu đều thực hiện thanh toán theo đúng quy  
định.  
1.2.2.2.6 Tỷ lệ rủi ro trong thanh toán phải thấp  
Rủi ro trong thanh toán tín dụng chứng từ những mất mát thiệt hại xảy ra cho  
các ngân hàng do không thu hồi được vốn đã thanh toán cho nước ngoài hoặc là  
những khoản chi phí phát sinh một cách vô ích. Các ngân hàng tham gia thanh toán  
tín dụng chứng từ thể gặp các rủi ro sau:  
- Với Ngân hàng phát hành: khi nhận được yêu cầu phát hành L/C do nhà nhập  
khẩu gửi đến, Ngân hàng phát hành phải tiến hành thẩm định và phân loại khách  
hàng để quyết định mở L/C hay không, và nếu mở thì tỉ lệ quỹ là bao nhiêu.  
Nếu đồng ý mở L/C có nghĩa là ngân hàng đã cam kết trả tiền cho nhà xuất khẩu,  
ngân hàng phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán nếu nhà xuất khẩu xuất trình được bộ  
chứng từ hoàn hảo. vậy, ngân hàng sẽ gặp phải rủi ro khi không thu hồi được  
vốn từ nhà nhập khẩu nếu chẳng may nhà nhập khẩu mất khả năng thanh toán. Rủi  
ro này xảy ra do Ngân hàng phát hành không đánh giá được uy tín và khả năng  
thanh toán của khách hàng, hoặc do trong quá trình sản xuất kinh doanh, nhà nhập  
khẩu gặp rủi ro dẫn đến thua lỗ, thậm chí bị phá sản.  
Mặt khác, Ngân hàng phát hành cũng thể gặp rủi ro do không làm đúng theo  
UCP mà L/C đã dẫn chiếu: Theo UCP, ngân hàng phát hành được miễn trách nhiệm  
thanh toán nếu chứng từ xuất trình có khác biệt với các điều kiện điều khoản của  
L/C. Tuy nhiên, nếu ngân hàng phát hành không hành động đúng theo những quy  
định tại điều 14 UCP 600, ngân hàng phát hành gặp rủi ro trên chính những bộ  
chứng từ lỗi đó, như: Thông báo từ chối nhưng không nói rõ sự bất hợp lệ của  
chứng từ, hoặc những bất hợp lệ này bị ngân hàng chiết khấu phủ nhận trở nên  
không có giá trị, hoặc thông báo những bất hợp lệ từ chối những chứng từ sau 5  
ngày làm việc của ngân hàng kể từ thời điểm nhận chứng từ, hoặc đã chuyển giao  
chứng từ cho người xin mở; hoặc làm mất không trả lại cho người xuất trình nguyên  
vẹn như khi nó nhận được, hoặc không giao chứng từ đó cho bên thứ ba do người  
xuất trình chỉ định…Trong những trường hợp này, ngân hàng phát hành có thể  
không thu hồi được tiền từ nhà nhập khẩu vẫn phải thanh toán cho phía xuất  
khẩu.  
- Với Ngân hàng thông báo: khi ngân hàng này thông báo nhầm một L/C giả  
( hoặc sửa đổi giả ) mà không có ghi chú gì theo thông lệ quốc tế, phải hoàn toàn  
chịu trách nhiệm với bên liên quan.  
- Với ngân hàng xác nhận: là khi không nắm được năng lực tài chính của ngân  
hàng phát hành mà xác nhận theo yêu cầu của họ, không yêu cầu quỹ để rồi cuối  
cùng, ngân hàng xác nhận phải nhận trách nhiệm thanh toán thay cho ngân hàng  
phát hành do ngân hàng phát hành thiếu thiện chí hay mất khả năng thanh toán.  
Việc xác nhận L/C thường xảy ra đối với những L/C có giá trị lớn mà ngân hàng  
phát hành là ngân hàng xa lạ, ít có tiếng tăm, hoặc do nhà xuất khẩu chưa tin tưởng  
nhà nhập khẩu cũng như ngân hàng phát hành. Do vậy, việc xác nhận nhằm ràng  
buộc trách nhiệm của ngân hàng xác nhận vào nghĩa vụ thanh toán L/C khi có tranh  
chấp giữa hai bên.  
- Với ngân hàng chiết khấu: rủi ro xảy ra phần lớn phụ thuộc vào thiện chí của  
ngân hàng phát hành và nhà nhập khẩu. Theo UCP 600, ngân hàng phát hành được  
miễn trách nhiệm trong trường hợp bộ chứng từ lỗi, hầu như trong nhiều  
trường hợp, NHPH từ chối thanh toán hay không là tùy thiện chí của nhà nhập khẩu.  
Mặc điều khoản chiết khấu có truy đòi cho phép ngân hàng chiết khấu được phép  
truy đòi lại nhà xuất khẩu nhưng nếu nhà xuất khẩu không có đủ khả năng thanh  
toán thì ngân hàng chiết khấu gặp rủi ro. Đồng thời, ngân hàng chiết khấu cũng có  
thể gây ra rủi ro cho chính mình do không hành động đúng theo như quy định của  
UCP 600. Ngân hàng chiết khấu cũng thời hạn 5 ngày làm việc để kiểm tra tính  
hợp lệ của chứng từ đòi tiền. Rủi ro xảy ra khi ngân hàng chiết khấu không tuân  
thủ đúng quy định này, làm mất quyền đòi tiền trong thời hạn được phép, vì thế bị  
ngân hàng phát hành từ chối trả tiền trong khi đã tiến hành chiết khấu cho nhà xuất  
khẩu.  
TÓM TẮT CHƯƠNG 1  
Thanh toán quốc tế ngày nay đóng một vai trò khá quan trọng đối với nền kinh tế  
thế giới nói chung và đặc biệt đối với nền kinh tế đang phát triển Việt Nam nói  
riêng. Trong đó, phương thức thanh toán tín dụng chứng từ đã nổi bật lên như một  
phương thức an toàn, chặt chẽ được sự tín nhiệm của người sử dụng.  
Bên cạnh đó, trong xu hướng hiện đại ngày nay, vấn đề chất lượng chính là yếu tố  
then chốt hàng đầu để một tổ chức kinh doanh có thể tồn tại và phát triển.  
Ở chương này, thông qua một số luận cơ bản về phương thức thanh toán và chất  
lượng về thanh toán, em xin đề ra một số tiêu chuẩn cơ bản nhằm đánh giá chất  
lượng phương thức thanh toán tín dụng chứng từ tại Sacombank:  
- L/C được mở vào thời điểm hợp lý và có nội dung phù hợp.  
- Ngân hàng thông báo kiểm tra chính xác tính chân thật bề ngoài của L/C và nhanh  
chóng chuyển L/C nhận được từ ngân hàng phát hành cho người xuất khẩu.  
- Tính hoàn hảo của bộ chứng tdo nhà xuất khẩu lập chất lượng công tác tư vấn  
lập chứng từ của ngân hàng thông báo đối với nhà xuất khẩu.  
- Ngân hàng phát hành thực hiện tốt trách nhiệm của mình khi tiếp nhận bộ chứng  
từ hàng hóa từ phía người xuất khẩu.  
- Ngân hàng phát hành nhanh chóng thu được tiền hàng từ phía người nhập khẩu.  
- Tỷ lệ rủi ro trong thanh toán phải thấp.  
CHƯƠNG 2: TÌNH HÌNH THANH TOÁN TÍN DỤNG  
CHỨNG TỪ CHẤT LƯỢNG THANH TOÁN TÍN DỤNG  
CHỨNG TỪ ĐỐI VỚI HÀNG NHẬP KHẨU TẠI  
SACOMBANK  
2.1 Giới thiệu tổng quan về ngân hàng TMCP Sacombank  
21.1 Lịch sử hình thành  
Sacombank- ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Thương Tín được thành lập  
và chính thức đi vào hoạt động vào ngày 21/12/1991 trên cơ sở hợp nhất giữa ngân  
     
hàng kinh tế Vấp với ba hợp tác xã tín dụng: Tân Bình, Thành Công và Lữ Gia  
trong một bối cảnh khó khăn chung của nền kinh tế đất nước. Ngay từ ban đầu,  
Sacombank ra đời với nhiệm vụ chính là huy động vốn, cấp tín dụng thực hiện  
các dịch vụ về ngân hàng khá đơn điệu, khi xuất phát điểm chỉ một ngân hàng  
nhỏ với số vốn điều lkhông quá 3 tỷ đồng số lượng nhân viên không thực mạnh  
(không vượt qua con số 80), bao gồm 1 hội sở và 3 chi nhánh chủ yếu hoạt động ở  
vùng ven thành phố Hồ Chí Minh. Những sự khắt khe trong quy định về tài chính  
lúc bấy giờ của chính phủ đã buộc Sacombank phải phát hành cổ phiếu đại chúng  
nếu không muốn rơi vào tình trạng sát nhập như những đơn vị khác. Đây cũng là  
giai đoạn mà các hợp tác xã tín dụng đang lâm vào tình trạng khủng hoảng với hàng  
loạt hợp tác xã mất khả năng chi trả, vỡ nợ, niềm tin của công chúng đối với các  
định chế tài chính ngoài quốc doanh sụp đổ. Sacombank đã những bước đi đầu  
tiên đầy cam go và thử thách: khi nguồn nhân lực còn thấp nợ quá hạn khó đòi  
chuyển giao sang đã lên đến gấp hai lần vốn tự có.  
Xuất phát thấp về vốn điều lệ, mang lưới, nhân lực và công nghệ ngân hàng,  
nhưng trong suốt 16 năm qua, Sacombank vẫn luôn quyết tâm củng cố, chấn chỉnh  
hoạt động, kiên trì theo đuổi các mục tiêu và chiến lược phát triển kinh doanh để có  
được vị thế như ngày hôm nay. Nhìn lại chặng đường 16 năm đã đi qua, Sacombank  
tự hào khi đã những bước tiến dài trên con đường phát triển bền vững.  
- 2/3/1993: Sacombank khai trương chi nhánh Sacombank Hà Nội. (Sacombank  
là ngân hàng thương mại cổ phần hội sở chính tại Thành phố Hồ Chí Minh đầu  
tiên mở chi nhánh tại Nội). Đồng thời là ngân hàng thương mại cổ phần đầu tiên  
thực hiện nghiệp vụ phát hành kỳ phiếu mục đích để huy động vốn dịch vụ  
chuyển tiền nhanh từ Nội đi Thành phố Hồ Chí Minh và ngược lại. Điều này  
góp phần làm giảm tình trạng sử dụng tiền mặt trong nền kinh tế tại hai đô thị lớn  
nhất nước ta là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, đồng thời cũng giúp cho  
Sacombank thêm tự tin để tiếp tục mở rộng mạng lưới chi nhánh và tăng nhanh  
nguồn vốn của mình.  
- 7/5/1995, Sacombank tiến hành đại hội đại biểu cổ đông cải tổ. Đây một  
bước ngoặc quan trọng kể từ ngày thành lập Sacombank. Trong đại hội này đã có  
một cuộc cải tổ lớn trong hội đồng quản trị: Ông Đặng Văn Thành giữ chức vụ chủ  
tịch hội đồng quản trị. Đồng thời thành lập nhóm hoạch định chính sách để tập  
trung xây dựng chiến lược phát triển giai đoạn 1996- 2010. Đây một bước ngoặc  
có ý nghĩa lớn đối với quá trình phát triển của Sacombank bởi nếu như không có  
cuộc cải tổ này thì Sacombank khó có thể tồn tại và phát triển được như ngày hôm  
nay.  
- 7/1995 hình thành bộ phận thường trực hội đồng quản trị (Chủ tịch, phó Chủ  
tịch, Ban kiểm soát làm việc theo chế độ thường trực) và thành lập các ban chuyên  
trách trực thuộc hội đồng quản trị: Ban thu hồi nợ, Ban lập quy, Nhóm hoạch định  
chính sách, Ban chấn chỉnh, Ủy ban quản rủi ro. Đây chính là phương thức quản  
trị đặc trưng của Sacombank từ năm 1995. Và sáng kiến này đã giúp cho hội đồng  
quản trị Sacombank thực hiện được đầy đủ chức năng quản trị của mình: Hoạch  
định, tổ chức, lãnh đạo, kiểm tra, góp phần vào hoàn thành kế hoạch chiến lược  
kinh doanh của toàn ngân hàng. (Xem phụ lục 1 về sơ đồ tổ chức hoạt động).  
- 10/1995, quan điểm chỉ đạo chiến lược về định hướng phát triển tín dụng của  
Sacombank sau thời kỳ cải tổ là cho vay phân tán theo đề án và kết hợp với cho vay  
tập trung có trọng điểm. Đề án thực hiện thành công tại chi nhánh Gò Vấp cơ sở  
cho Sacombank nhân rộng phạm vi thực hiện trên toàn hệ thống trở thành tiền đề  
cho định hướng phát triển tín dụng ngày nay. Đây tiền đề cơ sở cho mục tiêu  
xây dựng Sacombank trở thành một ngân hàng bán lẻ hàng đầu Việt Nam theo như  
chiến lược đã đề ra.  
- 3/1996, sáng kiến phát hành cổ phiếu đại chúng để tăng vốn điều lệ đã được ra  
đời. Đại hội đại biểu cổ đông Sacombank đã đồng thuận với sáng kiến của ông  
Đặng Văn Thành trong việc phát hành cổ phiếu đại chúng để tăng đủ số vốn điều lệ  
là 70 tỷ đồng theo đúng quy định của chính phủ, và nó đã mở đường cho quá trình  
tăng nhanh năng lực tài chính của Sacombank trong những năm về sau. Ngày nay,  
Sacombank đã trở thành một trong những ngân hàng thương mại cổ phần vốn  
điều lệ lớn nhất tại Việt Nam khởi đầu từ sáng kiến này. ( Xem phụ lục 2)  
- 3/5/1999, Sacombank đã khánh thành trụ sở chính tại 278 Nam Kỳ Khởi Nghĩa  
Quận 3 Thành phố Hồ Chí Minh, là một trụ sở khang trang, bề thế đầu tiên trong hệ  
thống các ngân hàng thương mại cổ phần của Việt Nam. Nó như một bức thông  
điệp khẳng định nên thương hiệu của Sacombank sẽ người bạn đồng hành thủy  
chung và lâu dài đối với các tổ chức kinh tế và dân trên địa bàn. Sự kiện này đã  
mở ra một thời kỳ mới, một bước phát triển mới nhảy vọt của Sacombank, là cơ sở  
để thể hiện sức mạnh tài chính, là sự tự tin cho những bước đi dài trong lĩnh vực đối  
ngoại của Sacombank sau này.  
- 1999, Sacombank trở thành thành viên của Hiệp hội Viễn thông liên ngân hàng  
toàn cầu (SWIFT), tiếp theo sau đó là gia nhập Hiệp hội Thẻ quốc tế Visa, Master  
tiếp nhận được ủy thác tín dụng và tài trợ kỹ thuật của nhiều tổ chức kinh tế tài  
chính nước ngoài. Điều này đã mở đường cho quá trình đẩy mạnh các hoạt động  
kinh tế đối ngoại nhờ đó thương hiệu Sacombank đã từng bước được củng cố và  
nâng cao trong khu vực cũng như trên thế giới.  
- 2001, tập đoàn tài chính Anh Quốc (Dragon capital) tham gia đóng góp vào  
10% vốn điều lệ Sacombank, mở đường cho việc tham gia góp vốn cổ phần của  
công ty tài chính Quốc tế IFC (2002) và ngân hàng ANZ (2005), nâng tổng số vốn  
cổ phần của các cổ đông nước ngoài lên gần 30% vốn điều lệ. Nhờ vào những sự  
kiện này mà Sacombank đã sớm nhận được những sự hỗ trợ về kinh nghiệm quản lý,  
về công nghệ ngân hàng, về quản rủi ro cũng như đào tạo và phát triển nguồn  
nhân lực từ các cổ đông chiến lược của mình. (Xem phụ lục 3)  
- 2002, thành lập các tổ chức tín dụng ngoài địa bàn ở những nơi chưa có chi  
nhánh, từ việc thử ngiệm thành công đầu tiên là việc thành lập tổ chức tín dụng tại  
huyện Bết Cát tỉnh Sông Bé (Bình Dương ngày nay) trực thuộc chi nhánh Gò Vấp.  
Đây một bước đột phá trong quản trị điều hành, nó tạo cơ sở giúp cho các chi  
nhánh hoạt động hiệu quả ngay từ thành lập chủ trương của ngân hàng nước  
ngoài.  
- 7/2003, học bổng: “Ươm mầm cho những ước mơ” của Sacombank được xây  
dựng, hàng năm sẽ trích 1% lợi nhuận thuần để xây dựng quỹ học bổng Sacombank  
để trao cho học sinh, sinh viên nghèo học giỏi trong cả nước, nơi mà Sacombank có  
chi nhánh trú đóng. Học bổng này giờ đây đã trở thành một hình ảnh thân thương và  

Tải về để xem bản đầy đủ

doc 77 trang yennguyen 29/05/2024 1030
Bạn đang xem 30 trang mẫu của tài liệu "Chuyên đề tốt nghiệp môn Thanh toán quốc tế", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docchuyen_de_tot_nghiep_mon_thanh_toan_quoc_te.doc