Đề án Một số giải pháp phát triển các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam
Đề án tốt nghiệp  
					Một số giải pháp phát triển các  
					hình thức thanh toán không dùng  
					tiền mặt tại Việt Nam  
				Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ  
					Một số giải pháp phát triển các hình thức thanh  
					toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam  
					LỜI NÓI ĐẦU  
					Sản xuất và lưu thông hàng hoá phát triển đã kéo theo các phương  
					thức thanh toán phát triển, phương thức này là sự kế thừa và phát triển  
					của phương thức trước đó. Khắc phục những nhược điểm của phương  
					thức thanh toán bằng tiền mặt, thanh toán không dùng tiền mặt là phương  
					thức thanh toán mới ưu việt hơn, đáp ứng một cách tốt hơn cho yêu cầu  
					của sự phát triển kinh tế.  
					Hiện nay ở rất nhiều nước trên thế giới việc thanh toán không  
					dùng tiền mặt đã trở nên quen thuộc với mỗi người dân, trong khi đó  
					ở Việt Nam khối lượng thanh toán không dùng tiền mặt còn chiếm tỷ  
					lệ rất hạn chế. Thanh toán không dùng tiền mặt chưa được người dân  
					chấp nhận rộng rãi, thậm chí nhiều người còn chưa nhìn thấy tờ séc,  
					tấm thẻ tín dụng bao giờ. Có thể nói một chúng ta chưa phát huy  
					được tính ưu việt của thanh toán không dùng tiền mặt và như vậy  
					chúng ta chưa tận dụng hết các điều kiện tốt nhất cho sự phát triển  
					của nền kinh tế.  
					Hiện nay khi mà thanh toán bằng tiền mặt đang là phổ biến thì việc  
					tìm ra giải pháp cho sự phát triển của thanh toán không dùng tiền mặt là  
					rất cần thiết tuy rằng điều đó không đơn giản. Nó đòi hỏi phải có sự quan  
					tâm, nghiên cứu một cách đầy đủ, phải có cái nhìn sâu hơn, rộng hơn. Với  
					mong muốn các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt sẽ ngày càng  
					được chấp nhận rộng rãi em đã chọn đề tài :“Một số giải pháp phát triển  
					các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam”.  
				Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ  
					Nội dung chính của đề tài bao gồm :  
					CHƯƠNG 1 : LÝ LUẬN CHUNG VỀ THANH TOÁN KHÔNG  
					DÙNG TIỀN MẶT.  
					CHƯƠNG 2 : THỰC TRẠNG VỀ CÁC HÌNH THỨC THANH  
					TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY  
					CHƯƠNG 3 : GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN VỀ CÁC HÌNH THỨC  
					THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT  
					- Giới hạn Đề tài :Với mong muốn thanh toán không dùng tiền  
					mặt sẽ phát triển và được chấp nhận rộng rãi, nhất là các cá  
					nhân, ở đề án này em chỉ tập trung vào hai hình thức thanh toán  
					là Séc và Thẻ Thanh Toán – hai hình thức tiện dụng nhất và các  
					cá nhân nên sử dụng nhất.  
					- Đối tượng của Đề án : Chủ yếu của đề án là các cá nhân, người  
					tiêu dùng trong các hoạt động thanh toán.  
					- Phương pháp nghiên cứu :  
					Đây là đề tài rộng, phức tạp và được nhiều ngưòi quan tâm, vì vậy  
					với kiến thức còn hạn chế trong phạm vi đề tài này em mới chỉ dừng lại ở  
					việc tổng hợp lại một số lý thuyết đã có, tham khảo các tài liệu, tạp chí, so  
					sánh với thực trạng của Việt Nam hiện nay, từ đó đưa ra một số nhận xét  
					ban đầu và các giải pháp cho vấn đề này.  
					Do khả năng phân tích đánh giá thực tế và kinh nghiệm còn nhiều  
					hạn chế, đề tài rộng, thời gian nghiên cứu không nhiều cho nên những vấn  
					đề đưa ra, các nhận xét đánh giá và kiến nghị chắc chắn không tránh khỏi  
					sai sót, lệch lạc. Em rất mong được sự chỉ bảo của các thầy cô giáo để đề  
					án của em được hoàn thiện hơn.  
					Em xin chân thành cảm ơn !  
					Hà Nội, 10/2004.  
				Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ  
				Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ  
					Chương 1  
					LÝ LUẬN CHUNG VỀ THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT.  
					1.1 lưu thông tiền tệ.  
					1.1.1 Khái niệm và vai trò của lưu thông tiền tệ.  
					- Lưu thông tiền tệ là sự vận động của tiền tệ trong nền kinh tế để thực hiện  
					các quan hệ thương mại, hàng hoá, phân phối thu nhập, hình thành nguồn  
					vốn và phúc lợi xã hội.  
					Có thể nói, sự lưu thông tiền tệ trong nền kinh tế đóng vai trò như hệ thống  
					mạch máu trong một cơ thể sống, nếu hệ thống mạch máu này hoạt động tốt thì  
					cơ thể sẽ khoẻ mạnh và phát triển, ngược lại nếu hệ thống mạch máu này hoạt  
					động trục trặc, hoặc hơn thế nữa là bị tắc nghẽn thì cơ thể sẽ ốm yếu và sẽ  
					không thể phát triển bình thường.  
					1.1.2 Các hình thức lưu thông tiền tệ.  
					1.1.2.1 Lưu thông bằng tiền mặt:  
					+khái niện: Đó là sự vận động của tiền mặt trong nền kinh tế phục vụ cho  
					các quan hệ thương mại với quy mô nhỏ và trong nội bộ dân cư là chính.  
					Đây là hình thức trong đó tiền tệ và hàng hoá đồng thời vận động với nhau.  
					+ Ưu điểm : Đây là hình thức đơn giản, chu chuyển nhanh, không gây ách  
					tắc trong chu chuyển và nó có hiệu quả kinh tế cao đối với người tham gia lưu  
					thông.  
					+ Nhược điểm :  
					- Tốn kém về mặt chi phí lưu thông tiền tệ như : in ấn, bảo quản, tổ  
					chức lưu thông…  
					- Gây ra những hiện tượng tiêu cực xã hội : Trộm cắp, rửa tiền, trốn  
					thuế…  
					- Nạn tiền giả.  
				Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ  
					1.1.2.2 Lưu thông không dùng tiền mặt:  
					+ khái niệm: Đây là hình thức lưu thông trong đó tiền tệ và hàng hoá vận  
					động tưông đối độc lập với nhau, đáp ứng cho nhu cầu thanh toán với quy mô  
					lớn, thông thường là các doanh nghiệp.  
					+ Nhược điểm :  
					- Phải có trình độ nhất định mới tham gia được.  
					- Mọi thanh toán phải thông qua ngân hàng.  
					- Trang bị cơ sở vật chất ban đầu khá tốn kém.  
					-Vấn đề bảo mật.  
					+ Ưu điểm :  
					- Khắc phục được một phần chi phí lưu thông.  
					- Tăng cường khẳ năng kiểm soát của nhà nước, của ngân hàng.  
					- Tạo ra sự văn minh lịch sự trong thanh toán  
					1.2 Sự cần thiết phải phát triển các hình thức thanh toán không dùng tiền  
					mặt.  
					1.2.1 Nguồn gốc của thanh toán không dùng tiền mặt.  
					Trong xã hội loài người, nếu còn sản xuất hàng hoá và lưu thông hàng  
					hoá, thì sự tồn tại của mối quan hệ Tiền – Hàng là một tất yếu khách quan. Đó  
					là mối quan hệ biện chứng, tác động lẫn nhau.  
					Theo tiến trình lịch sử hình thành tiền tệ, đồng tiền đã có những bước phát  
					triển từ thấp đến cao. Trong nền kinh tế tự nhiên khép kín, do nhu cầu còn rất  
					đơn giản con người tự sản xuất được những gì mình cần và do đó họ không có  
					nhu cầu trao đổi. Khi xã hội phát triển và mở rộng hơn, họ thấy rằng mình  
					không thể tự sản xuất mọi thứ mà mình cần do nhiều lý do, lúc này nhu cầu  
					trao đổi xuất hiện và vấn đề là trao đổi như thế nào. Vấn đề trùng lắp nhu cầu  
					xuất hiện. Nhưng không phải lúc nào và ở đâu cũng có sự trùng lắp nhu cầu.  
					Muốn trao đổi được hàng hoá người ta nghĩ tới một hàng hoá mà nhiều người  
				Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ  
					cùng cần, đó là vật đứng ra làm vật ngang giá chung – hình thức đầu tiên của  
					tiền tệ. Lúc đầu vật ngang giá chung rất đơn giản, nó có thể là vỏ sò vỏ hến hay  
					con bò, miếng đồng…Do yêu cầu thuận tiện trong trao đổi người ta thấy rằng  
					cần phải có vật ngang giá chung thế nào đó dễ vận chuyển, dễ chia nhỏ, không  
					hao mòn và có thể tích trữ dùng cho sau này. Con người đã chọn vàng.  
					Sản suất hàng hoá ngày càng phát triển, hàng hoá đưa vào lưu thông càng  
					nhiều, đòi hỏi phải có thêm lượng tiền đưa vào thêm đáp ứng nhu cầu của hàng  
					hoá đưa vào lưu thông. Hơn nữa người ta thấy rằng trong mua bán chịu, tờ giấy  
					ghi nợ cũng có giá trị như tiền vậy. Tiền giấy ra đời và nó đã giúp cho việc trao  
					đổi hàng hoá diễn ra thuận lợi hơn rất nhiều.  
					Nhưng sản xuất không ngừng phát triển, khối lượng tiền đưa vào lưu  
					thông ngay một lớn, đặc biệt là khi có lạm phát. Tiền giấy bộc lộ những hạn  
					chế nhất định như : Chi phí in ấn, bảo quản, tiền giả, kiểm đếm…Hơn nữa  
					trong nền kinh tế phát triển như ngày nay khối lượng tiền trong một giao dịch  
					là rất lớn, nếu thanh toán bằng tiền mặt thì rõ ràng là bất tiện. Như vậy đòi hỏi  
					phải có phương thức thanh toán mới ưu việt hơn khắc phục được những hạn  
					chế trên, phù hợp với một giai đoạn phát triển kinh tế mới.Thanh toán không  
					dùng tiền mặt xuất hiện như một tất yếu, thể hiện bước phát triển và hoàn thiện  
					ở đỉnh cao của lịch sử phát triển của tiền tệ.  
					1.2.2 Sự cần thiết phát triển thanh toán không dùng tiền mặt.  
					Thanh toán là cầu nối giữa sản xuất, phân phối, lưu thông và tiêu dùng.  
					Đồng thời nó cũng là khâu mở đầu và là khâu kết thúc của quá trình tái sản  
					xuất xã hội. Tổ chức tốt công tác thanh toán nói chung sẽ tạo điều kiện cho quá  
					trình sản xuất kinh doanh được tiến hành một cách trôi chảy nhịp nhàng.  
					Ngược lại việc thanh toán bị trục trặc, ách tắc thì quá trình sản xuất kinh daonh  
					sẽ lâm vào trì trệ.  
					Hiện nay khi mà nền kinh tế thế giới đã phát triển sang một giai đoạn mới,  
					lúc này ngân hàng phải phát huy đầy đủ các chức năng của mình đó là trung  
					tâm thanh toán trong nền kinh tế.  
				Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ  
					ở đây ta hiểu thanh toán không dùng tiền mặt là sự vận động của tiền tệ  
					với chức năng là phưong tiện thanh toán giữa các tổ chức cá nhân trong xã hội  
					bằng cách trích chuyển vốn tiền tệ từ tài khoản này sang tài khoản khác hoặc  
					bằng cách bù trừ lẫn nhau thông qua vai trò trung gian thanh toán của ngân  
					hàng hay các tổ chức tín dụng khác.  
					Đối với nền kinh tế thị trường thanh toán không dùng tiền mặt có vai trò  
					rất lớn.  
					+ Đối với nền kinh tế nói chung :  
					- Thanh toán không dùng tiền mặt không chỉ phục vụ cho các hoạt động của  
					các tổ chức, cá nhân mà nó còn góp phần mở rộng các quan hệ kinh tế khác  
					trong nền kinh tế quốc dân.  
					- Thúc đẩy nhanh quá trình luân chuyển hàng hoá , vật tư, tăng nhanh tốc độ  
					lưu chuyển vốn trong nền kinh tế.  
					+ Đối với ngân hàng :  
					- Thanh toán không dùng tiền mặt giúp cho ngân hàng tập chung được các  
					nguồn vốn trong dân cư.  
					- Giúp cho ngân hàng có được khoản thu từ phí cung cấp dịch vụ thanh  
					toán ổn định và an toàn.  
					- Tạo điều kiện cho Ngân hàng nhà nước kiểm soát và điều tiết lượng tiền  
					đi vào lưu thông, từ đó có các chính sách phù hợp tác động vào nền kinh tế.  
					-Với vai trò là các trung gian tài chính việc thanh toán qua ngân hàng giúp  
					cho việc thu thập các nguồn thông tin về doanh nghiệp và sự chuyển dịch vốn  
					trong nền kinh tế. Tạo điều kiện cho việc thẩm định các dự án đầu tư được tố  
					hơn.  
					+ Đối với xã hội :  
					- Tạo môi trường thanh toán văn minh, lịch sự, thuận tiện và nhanh chóng.  
				Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ  
					- Giúp người dân có thói quen thanh toán qua ngân hàng và sử dụng các  
					dịch vụ ngân hàng.  
					- Hạn chế nạn tiền giả, rửa tiền, thành lập các quỹ đen…  
				Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ  
					1.3 Các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt.  
					Theo quyết định 22/NH 21/01/1994 do Thống đốc Ngân hàng nhà nước  
					ban hành, các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt được áp dụng trong hệ  
					thống ngân hàng bao gồm : Séc, Uỷ nhiệm chi, Uỷ nhiệm thu, Thư tín dụng,  
					Ngân phiếu thanh toán, Thẻ thanh toán.  
					Quyết định 22/QĐ-NH1 ngày 21/12/1994 của Thống đốc Ngân hàng Nhà  
					nước Việt Nam là văn bản hướng dẫn đầy đủ nhất về TTKDTM. Tuy nhiên,  
					bản thân nội dung văn bản này còn nhiều bất cập. Điều 7 Quyết định đưa ra các  
					hình thức TTKDTM: séc, ủy nhiệm chi - chuyển tiền, ủy nhiệm thu, thư tín  
					dụng, ngân phiếu thanh toán, thẻ thanh toán. Một số chuyên gia cho rằng ngân  
					phiếu thanh toán không phải là TTKDTM mà chẳng qua là một loại tiền mệnh  
					giá lớn. Còn nếu coi ủy nhiệm chi - chuyển tiền là một thể thức TTKDTM thì  
					là sai về khái niệm, vì ủy nhiệm chi là một thể thức thanh toán, nhưng chuyển  
					tiền lại là phương thức thanh toán...  
					Gần đây nhất theo quyết định số 235/2002/QĐ-NHNN ngày 27/03/2002  
					của thống đốc NHNN về việc chấm dứt việc phát hành trái phiếu thanh toán.  
					Theo đó kể từ ngày 1/4/2002 NHNN sẽ không phát hành ngân phiếu thanh toán  
					nữa. Vậy nên với nội dung chính của đề tài là các hình thức thanh toán không  
					dùng tiền mặt hiện nay tại Việt Nam nên em xin không đề cập đến hình thức  
					thanh toán bằng ngân phiếu thanh toán, Uỷ nhiệm thu, Uỷ nhiệm chi.  
					1.3.1 Thanh toán bằng Séc.  
					Séc là một tờ mệnh lệnh trả tiền vô điều kiện do một khách hàng của ngân  
					hàng ra lệnh cho ngân hàng trích một số tiền nhất định trên tài khoản của  
					mình mở tại ngân hàng để trả cho người cầm Séc hoặc cho người được chỉ  
					định trên tờ Séc ( tổ chức kinh tế hay cá nhân ).  
					Séc là một mệnh lệnh, chứ không phải là một yêu cầu, do đó khi nhận  
					được Séc Ngân hàng chấp nhận vô điều kiện, trừ trường hợp tài khoản của  
					người phát hành không đủ hoặc không có tiền trả.  
				Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ  
					Cơ chế thanh toán không dùng tiền mặt của nước ta quy định về xử phạt  
					những tờ Séc phát hành quá số dư tiền gửi hoặc tiền lưu ký như sau :  
					+ Người phát hành Séc phải chịu phạt bằng 30% số tiền phát hành quá số  
					dư.  
					+ Người phát hành Séc phỉa chịu phạt về chậm trả ( kể từ ngày tờ Séc  
					quay về ngân hàng phục vụ người phát hành Séc đến ngày có đủ tiền thanh  
					toán).  
					Ngoài ra nếu người chủ tài khoản vi phạm phát hành Séc đến tờ thứ hai,  
					Ngân hàng nhà nước trung ương sẽ thông báo đến tất cả các ngân hàng, khách  
					hàng phát hành Séc quá số dư sẽ bị đình chỉ việc sử dụng loại Séc đó, thời gian  
					đình chỉ tối thiểu là 3 tháng. Trường hợp việc vi phạm nguyên tắc phát hành  
					Séc dẫn tới hậu quả nghiêm trọng thì Người phát hành Séc sẽ bị truy tố theo  
					quy định của pháp luật.  
					Các loại Séc bao gồm :  
					- Séc chuyển khoản.  
					Séc chuyển khoản – Séc thông thường là loại Séc được sử dụng  
					rộng rãi, nó có giá trị thanh toán như tiền tệ, do đó trên tờ séc phải có đầy đủ  
					những yếu tố bắt buộc theo luật định. Thông thường séc được in sẵn, người  
					phát hành chỉ việc điền vào chỗ quy định bằng loại mực không phai.  
					Viẹc ghi trên tờ séc phải bảo đảm tính hợp lệ, hợp pháp đối với việc  
					sử dụng Séc. Séc chuyển khoản cũng như các loại séc khác chỉ có hiệu lực  
					trong phạm vi thời hạn nhất định. Bởi vậy trong thời hạn hiệu lực của tờ Séc  
					ngân hàng phải thanh toán ngay khi người thụ hưởng Séc nộp Séc vào ngân  
					hàng. Cơ chế sử dụng Séc chuyển khoản hiện nay quy định : Thời hạn hiệu lực  
					của Séc là 10 ngày và séc chuyển khoản chỉ được áp dụng thanh toán giữa các  
					khách hàng có tài khoản ở một chi nhánh ngân hàng hoặc khác chi nhánh ngân  
					hàng có tham gia thanh toán bù trừ và giao nhận chứng từ trực tiếp hàng ngày.  
					- Séc bảo chi và Séc định mức.  
				Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ  
					Séc bảo chi và Séc định mức là loại Séc xác nhận được ngân hàng bảo  
					đảm khả năng thanh toán và chống lại việc phát hành khống.  
					- Séc chuyển tiền.  
					Séc chuyển tiền hay Séc chuyển tiền cầm tay là một loại chuyển tiền được  
					sử dụng theo yêu cầu của khách hàng. Việc chuyển tiền mặt giữa các tỉnh  
					thành phố qua ngân hàng được các ngân hàng thực hiện bằng phương thức  
					chuyển tiền nhanh bằng điện đến địa chỉ người lĩnh tiền, hoặc cấp séc chuyển  
					tiền cho khách hàng.  
					- Séc cá nhân.  
					Séc cá nhân được áp dụng đối với khách hàng có tài khoản tiền gửi đứng  
					tên cá nhân tại ngân hàng để thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ và các khoản  
					thanh toán khác.  
					Hiện nay theo quy định của ngân hàng Séc cá nhân có số tiền trên 5 triệu  
					phải làm thủ tục bảo chi Séc, người thụ hưởng phải yêu cầu người phát Séc  
					xuất trình CMND để kiểm tra và chỉ nhận Séc do đích thân người có tên trên  
					và sau tờ Séc và phải ký tên tại chỗ.  
					Thời hạn hiệu lực của Séc cá nhân là 10 ngày và chỉ được áp dụng thanh  
					toán giữa các khách hàng có tài khoản ở một chi nhánh ngân hàng hoặc khác  
					chi nhánh ngân hàng có tham gia thanh toán bù trừ và giao nhận chứng từ trực  
					tiếp hàng ngày.  
					1.3.2 Thanh toán bằng hình thức thẻ thanh toán.  
					Thẻ thanh toán là một phương tiện thanh toán hiện đại vì nó gắn với kỹ  
					thuật tin học ứng dụng trong ngân hàng. Thẻ thanh toán do ngân hàng phát  
					hành và bán cho khách hàng của mình ( các doanh nghiệp, cá nhân ) để thanh  
					toán tiền hàng hoá, dịch vụ, thanh toán nợ và lĩnh tiền mặt. Ở một số nước các  
					hãng, các công ty lớn cũng phát hành thẻ thanh toán để thu tiền bán hàng của  
					hãng mình.  
				Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ  
					Thẻ thanh toán bao gồm thẻ từ và thẻ điện tử. Thẻ từ là loại thẻ dùng kỹ  
					thuật băng từ để ghi và đọc thông tin trên thẻ. Thẻ điện tử là loại thẻ có gắn bộ  
					nhớ vi điện tử trên thẻ, ghi và đọc thông tin qua bộ nhớ vi điện tử.  
					Có 3 loại thẻ thanh toán được áp dụng :  
					- Thẻ thanh toán không phải ký quỹ.  
					Người sử dụng thẻ không phải lưu ký tiền vào tài khoản để đảm bảo thanh  
					toán. Căn cứ để thanh toán là số dư tài khoản tiền gửi của người chủ sở hữu thẻ  
					mở tại ngân hàng với hạn mức tối đa do ngân hàng quy định. Hạn mức được  
					ghi vào bộ nhớ của thẻ nếu là thẻ điện tử, vào giải băng từ nếu là thẻ điện tử.  
					Ở nước ta quy định thẻ thanh toán không phải ký quỹ là loại thẻ A. nó  
					được áp dụng cho những khách hàng có quan hệ tín dụng, thanh toán tốt và  
					thường xuyên, có tín nhiệm với ngân hàng.  
					- Thẻ thanh toán phải ký quỹ trước tại ngân hàng .  
					Người sử dụng thẻ phải lưu ký một số tiền nhất định vào tài khoản để đảm  
					bảo thanh toán. Số tiền ký quỹ là hạn mức của thẻ và được ghi vào bộ nhớ của  
					thẻ.  
					Loại thẻ này được quy định là loại thẻ B, nó được áp dụng với mọi loại  
					khách hàng.  
					- Thẻ tín dụng.  
					Thẻ tín dụng là loại thẻ không phải ký quỹ và được quy định là loại thẻ C. Nó  
					được áp dụng đối với những khách hàng được vay vốn ngân hàng. Mức tiền  
					cho vay là hạn mức tín dụng và được ghi vào bộ nhớ của thẻ.  
					Chương 2  
					THỰC TRẠNG VỀ CÁC HÌNH THỨC THANH TOÁN KHÔNG DÙNG  
					TIỀN MẶT  
					TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY.  
				Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ  
					2.1 Những quy định mang tính nguyên tắc trong thanh toán không dùng  
					tiền mặt .  
					Thanh toán không dùng tiền mặt là nghiệp vụ trung gian của ngân hàng,  
					nghiệp vụ này có liên quan chặt chẽ đến quan hệ trao đổi hàng hoá và dịch vụ  
					của tất cả các tổ chức cá nhân trong nền kinh tế. Để hoạt động thanh toán  
					không dùng tiền mặt diễn ra thuận lợi, an toàn, bảo đảm quyền lợi của các bên  
					tham gia, cần phải thống nhất công tác tổ chức và có những quy định cụ thể.  
					Ngân hàng nhà nước đã có quy định như sau :  
					2.1.1 Quy định chung.  
					Các doanh nghiệp, cơ quan nhà nước, đoàn thể, cá nhân được quyền lựa  
					chọn ngân hàng để mở tài khoảngiao dịch và thực hiện thanh toán.  
					Việc mở tài khoản thanh toán tại ngân hàng, kho bạc nhà nước thì thực  
					hiện qua tài khoản được ghi bằng đồng Việt Nam. Trường hợp ghi bằng ngoại  
					tệ phải thực hiệntheo quy chế quản lý ngoại hối của chính phủ Việt Nam ban  
					hành.  
					2.1.2 Quy định đối với ngân hàng.  
					Thực hiện uỷ thác thanh toán của chủ tài khoản, bảo đảm chính xác, an  
					toàn, thuận tiện. Các ngân hàng và kho bạc có trách nhiệm chi trả bằng tiền  
					mặthoặc chuyển khoản trong phạm vi số dư tiền gửi theo yêu cầu của chủ tài  
					khoản.  
					Kiểm tra khả năng thanh toán của chủ tài khoản trước khi thực hiện thanh  
					toán và được uỷ quyền từ chối thanh toán nếu tài khoản không đủ tiền, đồng  
					1thời không chịu trách nhiệm về những nội dung liên đới của bên khách hàng.  
					Nừu thiếu sót trong quá trình thanh toán, gây thiệt hại cho khách hàng thì  
					ngân hàng và kho bạc phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại và tuỳ theo mức  
					độ thiệt hại mà có thể bị xử lý theo pháp luật.  
					Khi thực hiện các dịch vụ thanh toán cho khách hàng ngân hàng được thu  
					phí theo quy định của thống đốc Ngân hàng nhà nước.  
				Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ  
					2.1.3 Quy định đối với khách hàng.  
					Để đảm bảo thực hiện thanh toán đầy đủ kịp thời, các chủ tài khoản phải  
					có đủ tiền trên tài khoản, mọi trường hợp thanh toán quá số dư là phạm pháp  
					và phải xử lý theo quy định của pháp luật.  
					Chủ tài khoản phải lập chứng từ theo mẫu in sẵn do ngân hàng ấn hành và  
					các chứng từ phải đầy đủ các yếu tố quy định về mẫu, chữ ký dăng ký tại ngân  
					hàng.  
					2.2 Thực trạng về các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt.  
					Đã có một thời, việc kiểm soát tiền mặt tồn quỹ được thực hiện ráo riết, tỷ  
					trọng thanh toán không dùng tiền mặt (qua ngân hàng) tăng cao, thanh toán  
					bằng tiền mặt giảm mạnh. Nhưng biện pháp hành chính đó không phù hợp với  
					cơ chế thị trường. Đến nay, nhiều chuyên gia ngân hàng cho rằng thanh toán  
					không dùng tiền mặt ở Việt Nam vẫn chiếm tỷ lệ thấp, khoảng 30% tổng doanh  
					số thanh toán trong nền kinh tế. Nhiều nghìn tỷ đồng tiền mặt đang rải rác  
					trong từng cá nhân, gia đình, quỹ cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp để thanh toán  
					trực tiếp khi mua hàng, kể cả mua bất động sản trị giá hàng tỷ đồng. Sử dụng  
					tiền mặt phổ biến trong thanh toán vừa gây nhiều lãng phí, vừa là kẽ hở lớn  
					cho nạn tham nhũng, buôn lậu, trốn thuế luồn lách, lẩn trốn sự kiểm soát của  
					Nhà nước và xã hội.  
					(thêm vao trong ổ đia ,hihhihihi)  
					Trong thời kỳ tập trung bao cấp, Nhà nước ta cũng rất quan tâm đề ra  
					những chủ trương lớn về việc sử dụng phương tiện thanh toán không dùng tiền  
					mặt trong nền kinh tế. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của cơ chế mệnh lệnh hành  
					chính quan liêu cùng với hệ thống ngân hàng một cấp, việc mở rộng thanh toán  
					chuyển khoản chỉ phát huy hiệu lực trong bộ phận kinh tế nhà nước. Lợi ích  
					chính đáng và hợp pháp của chủ thể thanh toán không được tôn trọng đúng  
					mức chính là lý do làm cho những chủ trương nói trên trở nên kém thực thi,  
					thậm chí còn bị biến dạng trở thành phương tiện thể hiện quyền lực nhằm mục  
				Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ  
					đích gây sách nhiễu, phiền hà. Trước năm 1985, thanh toán không dùng tiền  
					mặt chiếm 80%, nhưng trong cuộc lạm phát phi mã 1985 – 1988, thanh toán  
					không dùng tiền mặt sút giảm ghê gớm vì tiền mặt khan hiếm đến mức các  
					ngân hàng quốc doanh khi đó, với thế độc quyền, đã khất chi tiền mặt. Một cái  
					séc chuyển khoản nộp vào ngân hàng phải 15 ngày sau mới tính ra bằng tiền  
					mặt được.  
					Thực tế trên đã ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động thanh toán không dùng  
					tiền mặt hiện nay, nhất là khi nền kinh tế đã chuyển sang cơ chế thị trường.  
					Mọi việc lại trở nên “quá đà” khi xã hội không chấp nhận rộng rãi các hình  
					thức thanh toán không dùng tiền mặt. Hệ thống thanh toán thông qua định chế  
					tài chính – ngân hàng mặc dù có bước phát triển vượt bậc so với trước đây,  
					nhưng nhìn chung còn bất cập trong xu thế hội nhập quốc tế, chưa đi vào cuộc  
					sống, thậm chí còn rất xa lạ với đại đa số dân cư.  
					Thực trạng xã hội nước ta vẫn là “một quốc gia sử dụng quá nhiều tiền mặt”  
					như nhận xét của nhiều khách nước ngoài. Thực trạng đó theo Phó Thủ Tướng  
					Nguyễn Tấn Dũng : “…làm cho việc điều hoà lưu thông tiền tệ và quản lý kho  
					quỹ rất khó khăn, phân tán, tốn kém, ảnh hưởng rất lớn đến việc hiện đại hoá  
					công nghệ ngân hàng và cấu trúc lại hệ thống…”.  
					2.2.1 Thanh toán bằng Séc.  
					Ngày 9/5/1996, chính phủ đã ban hành nghị định 30 về phát hành và  
					sử dụng Séc. Ngày 27/12/1996 Ngân hàng nhà nước đã ban hành thông tư  
					07 hướng dẫn việc thi hành nghị định trên của chính phủ. Những văn bản  
					pháp quy về phát hành và sử dụng Séc có hiệu lực hơn 5 năm nay. Nhưng,  
					Séc vẫn chưa đi vào cuộc sống. Như vậy, những văn bản pháp quy trên,  
					nhất là thông tư 07 của Ngân hàng nhà nước có những điểm chưa phù hợp,  
					nên Séc chưa đi vào cuộc sống. Ta có thể thấy rõ điều này qua các con số  
					thống kê về thanh toán không dùng tiền mặt tại TP. Hồ Chí Minh.  
					TP.HCM là một thành phố lớn có tốc độ phát triển và thu nhập bình quân  
					đầu người cao nhất cả nước. Nhưng các hình thức thanh toán không dùng tiền  
				Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ  
					mặt cũng phát triển rất “ì ạch”.Thanh toán bằng uỷ nhiệm chi được ưa chuộng  
					nhất trong khâu thanh toán do thủ tục đơn giản, hiện đang chiếm vị trí tuyệt đối  
					trong khâu thanh toán giữa các thể nhân và pháp nhân khác nhau trong nền  
					kinh tế. Tính hết 6 tháng đầu năm nay, thể thức này chiếm tỷ trọng 90,97%  
					tổng doanh số thanh toán không dùng tiền mặt. Trong khi đó, tỷ trọng thanh  
					toán bằng séc qua ngân hàng còn rất khiêm tốn, tỷ trọng này chỉ là 0,31% trong  
					tổng doanh số thanh toán không dùng tiền mặt tại Tp.HCM tính đến 6 tháng  
					đầu năm nay. Còn uỷ nhiệm thu, tỷ trọng thanh toán cũng rất thấp, chỉ bằng  
					2,07% tổng doanh số thanh toán không dùng tiền mặt. Vậy vì sao các công cụ  
					thanh toán không dùng tiền mặt ở một đô thị lớn như Tp.HCM lại phát triển  
					chậm và lệch lạc như vậy?… dẫu rằng không phải chúng không thấy được tác  
					dụng tích cực của nó.  
					Đây là một ví dụ, dẫn chứng thực tế :  
					Vừa qua, các doanh nghiệp (DN) lắp ráp xe gắn máy hai bánh đã mua linh  
					kiện của các DN sản xuất trong nước, thực hiện nội địa hoá, với số tiền hơn tỷ  
					đồng, thanh toán một lần bằng tiền mặt để trốn thuế. Xảy ra hiện tượng này  
					một phần là do dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt của ngân hàng (NH)  
					chưa phát triển, Chính phủ chưa ban hành cơ chế; phạm vi và số tiền tối đa  
					được thanh toán bằng tiền mặt.  
					- Mặc dù có nhiều công cụ thanh toán hiện đại xuất hiện, nhưng séc vẫn là  
					một công cụ thanh toán phổ biến trên thế giới. Phần lớn ở các nước đều có  
					Luật séc riêng, hoặc séc sẽ được quy định trong luật Thương Mại, hoặc nếu  
					không sẽ sử dụng ngay Luật Thống nhất về séc, nên khi sử dụng séc tính pháp  
					lý rất cao, quyền lợi của người sử dụng séc được đảm bảo. Còn ở Việt Nam  
					chưa có luật Séc, trong Luật Thương mại cũng không quy định mà mới chỉ  
					được ban hành dưới dạng Nghị định của Chính phủ. Song thực tế Nghị định  
					này và Thông tư hướng dẫn của NHNN để thực hiện Nghị định về séc còn  
					nhiều điểm chưa phù hợp, do vậy tính khả thi không cao, tính pháp lý chưa  
					đảm bảo vững chắc, quyền lợi và nghĩa vụ của những người tham gia sử dụng  
					séc không rõ ràng.  
				Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ  
					NGUYÊN NHÂN.  
					-
					Một là, vấn đề mở tài khoản :  
					Trong thông tư của Ngân hàng nhà nước hướng dẫn thi hành Nghị định 30  
					về phát hành và sử dụng séc chưa phù hợp với thông lệ quốc tế và văn bản  
					pháp quy của Ngân hàng nhà nước. Trong thông tư 07 dùng ngôn từ “tài khoản  
					thanh toán” trong khi đó hệ thông kế toán của ngân hàng thương mại do Ngân  
					hàng nhà nước ban hành chỉ có tài khoản tiền gửi không kỳ hạn và tài khoản  
					tiền gửi có kỳ hạn. Trên thế giới, doanh nghiệp, cá nhân cùng một lúc mở hai  
					tài khoản tiền gửi tại ngân hàng và chỉ tài khoản tiền gửi không kỳ hạn mới có  
					quyền rút tiền mặt hoặc thanh toán không dùng tiền mặt.  
					-
					Hai là, Hình thức tờ Séc do Ngân hàng nhà nước thiết kế không  
					phù hợp với thực tế.  
					Theo mẫu Séc kèm theo thông tư 07 của Ngân hàng nhà nước, người phát  
					hành Séc ngoài việc ghi họ tên người thụ hưởng còn phải gi số ngày cấp và nơi  
					cấp CMND ; số hiệu tài khoản tiền gửi không kỳ hạn và địa chỉ người thụ  
					hưởng. Điều này thực tế rất khó thực hiện. Ngườiphát hành Séc và người thị  
					hươngr cùng thành phố, phải gặp nhau mới thực hiện được nội dung tờ Séc này  
					yêu cầu.  
					Nội dung trên là không cần thiết mà nên dành cho chi nhánh ngân hàng  
					hoặc kho bạc nhà nước tiếp nhận tờ Séc. Khi đó người thụ hưởng Séc phải xuất  
					trình Séc cùng chứng minh thư.  
					Trên tờ Séc đòi hỏi hai chữ ký : Kế toán trưởng và chủ tài khoản. Điều  
					này gây phiền phức cho bên phát hành Séc. Các chuyên gia cho rằng trên tờ  
					Séc chỉ cần một chữ ký của chủ tài khoản hoặc người dược chủ tài khoản uỷ  
					quyền.  
					-
					Ba là, phạm vi thanh toán của Séc qúa hẹp.  
					Như trong phần lý luận chung ta đã thấy thanh toán bằng séc có phạm vi  
					khá hẹp, không cho thanh toán ngoài hệ thống, ngoài địa bàn thành phố nên bị  
				Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ  
					hạn chế. Thủ tục luân chuyển séc cũng chậm vì còn yêu cầu ghi nợ trước, ghi  
					nợ sau. Trường hợp 2 đơn vị mua bán có tài khoản tại 2 nơi khác nhau, phải  
					mất thời gian chuyển cho ngân hàng bên mua để ghi nợ trước rồi ngân hàng  
					bên bán mới được ghi có sau vào tài khoản đơn vị bán. Việc này áp dụng với  
					cả séc bảo chi gây không ít phiền hà cho khách vì phải lưu ký tiền trên tài  
					khoản mà không rút ngắn được thời gian luân chuyển chứng từ.1  
					- Với các dịch vụ thanh toán, việc sử dụng các công cụ thanh toán ban hành  
					theo Nghị định 91/CP, Quy định 22-NH và Thông tư 08 của Ngân hàng  
					Nhà nước về kinh doanh thương mại hiện nay không còn phù hợp với thực  
					tế. Các hình thức thanh toán như séc định mức, thư tín dụng hoàn toàn  
					không được sử dụng, séc chuyển tiền chỉ được sử dụng rất ít.  
					- Một số thủ tục còn rườm rà như trong chế độ quy định khi mua séc, chủ tài  
					khoản phải lập giấy đề nghị bán séc, đồng thời uỷ nhiệm chi trích tài khoản  
					tiền gửi để mua séc, hay loại chứng từ cho cùng một nội dung. Một số  
					trường hợp như người thụ hưởng séc nộp séc vào ngân hàng quá thời hạn  
					thanh toán, đơn vị thu hộ chuyển séc chậm cho đơn vị thanh toán... phải đến  
					UBND xã, phường nơi cư trú hoặc đóng trụ sở để xin xác nhận lý do bất  
					khả kháng. Quy định này khiến cho công chúng cân nhắc việc lựa chọn sử  
					dụng séc vì các cơ quan chức năng nói trên chưa chắc đã am tường về séc  
					để dễ dàng xác nhận trên chứng từ. Do đó, cần xác định rõ thế nào là yếu tố  
					"bất khả kháng" để các cơ quan chức năng có thể dễ dàng xác nhận.  
					Với tài khoản cá nhân, chỉ được uỷ quyền từng lần phát hành séc hoặc uỷ  
					quyền trong một thời gian nhất định, mỗi lần uỷ quyền phải ra UBND huyện,  
					quận xác nhận. Đối với pháp nhân, chủ tài khoản là người toàn quyền chịu  
					trách nhiệm về sử dụng tài khoản của mình. Mỗi khi uỷ quyền tạm thời cho  
					người khác, chủ tài khoản cũng phải ra UBND quận huyện xác nhận là điều vô  
					lý. Đối với thời hạn hiệu lực, nếu chỉ cho phép có 15 ngày thì quá ngắn so với  
					thông lệ ở các nước khác 6 tháng hay 1 năm. Do hiện nay, séc được phép  
					1 Theo thêi b¸o ng©n hμng ngμy 11/1/2002  
				Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ  
					chuyển nhượng nên nếu kéo dài thời hạn hiệu lực của tờ séc sẽ làm cho người  
					thụ hưởng séc an tâm hơn, không phải lo đi minh chứng yếu tố bất khả kháng  
					tại các cơ quan chức năng. Theo các chuyên gia, không cần ghi địa chỉ người  
					phát hành séc vì họ đã có tài khoản tín dụng, và địa chỉ của họ đã lưu trong hồ  
					sơ mở tài khoản. Cũng không cần ghi số chứng minh nhân dân của người thụ  
					hưởng trên tờ séc vì một khi séc đã cho phép chuyển nhượng thì người thực sự  
					trình séc lãnh tiền ở ngân hàng có thể không phải là người thụ hưởng có tên ghi  
					trên séc, còn với séc vô danh thì người nào trình séc người đó lĩnh tiền.  
					2.2.2 Thẻ thanh toán.  
					Thanh toán bằng thẻ, dù còn khá khiêm tốn nhưng được coi là khả quan  
					và có chiều hướng phát triển vì đang hấp dẫn cá nhân sử dụng. Sau thời kỳ  
					hoàng kim những năm đầu thập kỷ 90, tình hình sử dụng thẻ tín dụng tại Việt  
					Nam đã chững hẳn lại, và chỉ gần đây mới sôi động lên với sự tham gia của  
					nhiều ngân hàng phát hành và thanh toán.  
					Ta có thể thấy thực trạng của hoạt động thanh toán thẻ qua sự phát triển  
					và một số vấn đề của hình thức thanh toán này ở các ngân hàng lớn tại Việt  
					Nam.  
					2.2.2.1 Các ngân hàng trong cuộc đua ATM .  
					Theo ông Nguyễn Thanh Toại, phó tổng giám đốc Ngân hàng Á châu  
					(ACB): Rồi đây, trong cuộc đua sử dụng thẻ rút tiền tự động, các ngân hàng  
					VN sẽ đi vào vết xe đổ như từng xảy ra tại Singapore: một siêu thị có tới hàng  
					chục máy rút tiền.  
					Automated Teller Machine (ATM) là hình thức đang được nhiều ngân  
					hàng thương mại phát triển, chủ yếu tại các thành phố lớn, nhằm giảm tải nhu  
					cầu giao dịch bằng tiền mặt. Máy này cho phép chủ tài khoản có thể rút,  
					chuyển tiền, xem số dư tài khoản…  
					Hiện nay, Ngân hàng đầu tư phát triển, Ngân hàng công thương, ACB,  
					Vietcombank… đang ráo riết thương thảo các hợp đồng thuê chỗ đặt máy  
				Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ  
					ATM. Sẽ lắp thêm 100 máy ở một số tỉnh, thành trong cả nước. Và hiện đang  
					có 400 máy ATM khăp cả nước.  
					Giải bài toán đầu tư phát triển dịch vụ thẻ thanh toán không phải dễ, cần  
					có thời gian cho nhân viên làm quen với công việc mới cũng như để khách  
					hàng chấp nhận sử dụng tiện ích mới. Vietcombank bắt đầu phát hành thẻ này  
					từ năm 1993, nhưng đến tháng 12/1999 phải cho ngừng hoạt động vì không  
					hiệu quả.  
					Chi phí để mua máy (30.000 USD/máy) không tốn bằng chi phí vận hành  
					hệ thống máy. Mỗi năm, ACB đã phải chi bạc tỷ cho trung tâm thẻ hoạt động,  
					trong khi phải mất đến 5 năm, trung tâm này mới làm ra lãi.  
					Ngân hàng Nhà nước TP HCM vừa khuyến nghị các ngân hàng thương  
					mại nên cân nhắc khi đầu tư và phát triển hệ thống ATM sao cho hiệu quả. Do  
					thiếu phối hợp trong khâu phát hành thẻ nên thẻ của ngân hàng nào chỉ có thể  
					rút được tiền từ máy của ngân hàng đó.  
					Do vậy, nếu muốn tạo thuận lợi cho người rút tiền thì cùng một nơi công  
					cộng, phải trang bị nhiều loại máy của từng ngân hàng khác nhau, rất lãng phí.  
					Trên thực tế, hầu hết các máy rút tiền hiện chỉ được lắp đặt tại ngay trụ sở ngân  
					hàng, chưa có tại nơi công cộng, do vậy ít người sử dụng.  
					2.2.2.2 Chưa thể ngăn chặn nạn dùng thẻ tín dụng giả.  
					Thanh toán bằng thẻ tín dụng mới xuất hiện ở Việt Nam, nhưng đã xảy ra  
					nhiều vụ sử dụng thẻ giả để mua hàng hóa, ăn chơi, thậm chí "móc trộm" của  
					ngân hàng cả trăm nghìn USD. Tuy nhiên, việc điều tra, tấn công loại tội phạm  
					này mới dừng lại ở phần ngọn  
					Trung tâm an toàn thẻ của tổ chức Master Card khu vực Châu á đánh giá  
					cao công tác chống loại tội phạm này ở Việt Nam. Tuy nhiên, mọi việc điều tra,  
					thu giữ, giám định thẻ giả được thực hiện lâu nay mới chỉ là phần ngọn, còn  
					phần gốc là những tổ chức đường dây làm thẻ giả thì rất mờ mịt.  
				Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ  
					Cơ quan Điều tra (Bộ Công an), cho biết, sử dụng thẻ tín dụng giả để lừa  
					đảo xảy ra ở nhiều nước trên thế giới. Là thị trường mới áp dụng thẻ thanh toán  
					không dùng tiền mặt, Việt Nam đang trở thành “điểm hẹn” của bọn tội phạm  
					tiêu thụ thẻ giả, mà chủ yếu là người nước ngoài.  
					2.2.2.3 Hệ thống ATM có được khai thác hiệu quả?.  
					Hiện nay, hệ thống ATM đã bắt đầu được triển khai khá rộng rãi tại các  
					ngân hàng Việt Nam. Có nhiều nguồn tin cho rằng việc đầu tư vào các hệ  
					thống ATM là không có hiệu quả, bởi vì chi phí vận hành hàng năm cho một  
					máy ATM có thể lên tới 300 triệu đồng, trong khi đó số lượng khách hàng sử  
					dụng dịch vụ này thì lại quá ít.  
					Hiện nay có rất nhiều ý kiến cho rằng, các ngân hàng nên cân nhắc khi  
					đầu tư và phát triển hệ thống ATM  
					Khi các ngân hàng có một khoản chi phí, thay vì mua hoặc xây thêm một  
					trụ sở hay mở thêm một chi nhánh họ sẽ đầu tư trang bị máy ATM. Hệ thống  
					ATM sẽ giúp cho xã hội được văn minh hơn và tăng các giao dịch không sử  
					dụng tiền mặt. Việc đầu tư thêm thiết bị mới sẽ giúp các ngân hàng có phương  
					tiện để kinh doanh hiệu quả hơn. Tuy nhiên, việc đầu tư vào hệ thống ATM để  
					có lợi nhuận ngay thì đến nay trên thế giới vẫn chưa có ngân hàng nào thực  
					hiện được, bởi vì để tính chi phí và doanh thu riêng cho một dịch vụ là rất khó.  
					Một cá nhân sử dụng dịch vụ ATM có thể thực hiện nhiều giao dịch có liên  
					quan khác như: kiểm tra các thông số về thẻ tín dụng, gửi nhận tiền và các dịch  
					vụ khác... Do vậy việc đánh giá hiệu quả của dịch vụ này ngay khi đầu tư là rất  
					khó.  
					Có một tình trạng hiện nay là thẻ của ngân hàng nào thì chỉ có thể rút tiền  
					từ máy ATM do ngân hàng đó trang bị, điều này đã gây ra rất nhiều bất lợi cho  
					người sử dụng và lãng phí. Cần phải làm gì để giải quyết được vấn đề này?  
					Các ngân hàng có nên liên minh về hệ thống ATM?  
					Đây là vấn đề sử dụng một hay nhiều thẻ. Nếu như không có một chuẩn  
					công nghệ chung thì sẽ có tình trạng hàng trăm hệ thống dịch vụ sẽ tương ứng  
				Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ  
					với hàng trăm loại thẻ khác nhau. Do vậy ở đây cần phải có vai trò của Chính  
					phủ trong việc tạo ra một cơ sở pháp lý để các ngân hàng hoạt động thống nhất  
					với nhau trên một nền tảng công nghệ chung. Nền tảng công nghệ chung ở đây  
					có nghĩa là mỗi ngân hàng có thể có một kiến trúc khác nhau nhưng sẽ có một  
					chuẩn công nghệ quốc gia để các ngân hàng có thể giao tiếp được với nhau và  
					các dịch vụ của ngân hàng có thể cung cấp cho khách hàng theo nhiều kênh  
					khác nhau. Và khi có vai trò của Chính phủ, thì chỉ cần có một thẻ mà các ngân  
					hàng vẫn thể cạnh tranh một cách bình đẳng.  
					Còn việc liên minh giữa các ngân hàng về hệ thống ATM thì đây là vấn  
					đề tự các ngân hàng nhận thấy là có cần thiết hay không? Về bản chất ATM  
					chỉ là một trong 16 kênh dịch vụ của ngành tài chính ngân hàng.  
					Xu hướng phát triển các dịch vụ từ hệ thống ATM?  
					Hệ thống ATM không đơn giản là dịch vụ rút tiền tự động, mà hệ thống  
					ATM còn cho phép ngân hàng triển khai các dịch vụ như tra cứu số dư tài  
					khoản, tra cứu thông tin về tỷ giá, lãi suất của ngân hàng, chuyển khoản, thanh  
					toán các loại hoá đơn như tiền điện thoại, điện, nước, trả lương cho cán bộ  
					công nhân viên. Thậm chí, hệ thống ATM có thể phát hành được các ấn phẩm  
					như tem, vé xem phim...  
					Hơn thế nữa, hệ thống ATM không chỉ dùng cho các giao dịch của ngân  
					hàng, mà nó còn liên quan đến ngành thuế, hải quan, bảo hiểm và các ngành  
					kinh tế khác. Trong tương lai, khi xã hội ngày càng phát triển thì khối lượng  
					giao dịch tiền mặt sẽ ngày càng thấp đi, và xu hướng giao dịch bằng một thẻ sẽ  
					là tất yếu. Trong xã hội hiện đại đó, một thẻ có thể dùng cho mọi giao dịch liên  
					quan như: chứng minh thư, bảo hiểm, y tế, ngân hàng, các hệ thống siêu thị...  
					Và người dùng sử dụng dịch vụ nào sẽ trả tiền cho dịch vụ đó. Tại khu vực  
					châu Á, Hồng Kông và Malaysia là hai ví dụ điển hình trong việc xây dựng  
					một lộ trình hướng tới mọi giao dịch thông qua một thẻ duy nhất.  
					Nếu ai đã từng sống hay đi qua các nước kinh tế phát triển, sẽ thấy các  
					giao dịch thanh toán của người dân thông qua dùng thẻ thanh toán hay thẻ tín  
				Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ  
					dụng là rất phổ biến, thậm chí có nước giá trị thanh toán đó lên đến trên 90%  
					tổng giá trị thanh toán tiêu dùng. Vậy tại sao thanh toán bằng thẻ vẫn chưa  
					thành hình ở nước ta như ở các nước phát triển, thiết nghĩ có 3 yếu tố:  
					- Thứ nhất, cơ sở hạ tầng về công nghệ thông tin của họ rất đầy đủ. Bởi  
					vậy, hầu như tất cả các cửa hàng, thậm chí ở trong trường học họ đều có máy  
					thanh toán tiền trực tuyến. Điều này Việt Nam chưa hội đủ điều kiện. Mặt khác  
					luật pháp của Việt Nam chưa có quy định nào bắt buộc các cơ sở kinh doanh  
					phải có máy thanh toán (quy định này có thể nằm trong Luật Doanh nghiệp  
					chứ không cần phải quy định trong Luật các Tổ chức Tín dụng hay Luật Ngân  
					hàng Nhà nước).  
					- Thứ hai, nhìn về vấn đề thu nhập ở các nước kinh tế phát triển, người  
					dân có thu nhập đều và cao, do đó số dư tiền gửi trên tài khoản thanh toán là  
					khoản tiền ổn định và khá lớn, số tiền này được gọi là khoản vốn vãng lai trong  
					hoạt động ngân hàng. Do ngân hàng có thể sử dụng một phần số tiền đó để  
					kinh doanh, nên khi người sử dụng tài khoản thanh toán thì chỉ phải trả một  
					khoản phí rất nhỏ hoặc thậm chí bằng không. Nói dùng tiền mặt "rẻ hơn" tiền  
					thẻ là hoàn toàn đúng với Việt Nam. Trên thực tế các ngân hàng thương mại  
					Việt Nam sẽ khó có thể đưa ra giá thành rẻ hơn.  
					- Thứ ba, về thói quen người tiêu dùng và trình độ nhận thức, một phần do  
					người dân và một phần do cả Ngân hàng Nhà nước còn chưa quan tâm đến  
					việc khuyến khích người dân dùng thẻ thanh toán. Thực sự ngạc nhiên, tại sao  
					Ngân hàng Công thương lại lắp đặt hai máy rút tiền tự động trong Sở Giao dịch  
					của Ngân hàng Nhà nước. Trong khi muốn để người dân tiếp cận việc thanh  
					toán thẻ, cần có sự tiện lợi rút và gửi tiền qua các máy ATM. Sở giao dịch  
					Ngân hàng Nhà nước chủ yếu lại là nơi giao dịch của các doanh nghiệp ngân  
					hàng và một bộ phận nhỏ là cán bộ của Ngân hàng Nhà nước. Nếu số tiền đầu  
					tư cho hai máy ATM trên được lấy từ quỹ hiện đại hóa ngân hàng do World  
					Bank tài trợ thì quả là phí, không hiệu quả về mặt kinh tế và chưa phục vụ cho  
					việc phát triển thanh toán thẻ ở Việt Nam.  
				Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ  
					Thiết nghĩ, trên góc độ phát triển kinh tế, Ngân hàng Nhà nước nên quan  
					tâm và đưa chiến lược phát triển thanh toán thẻ vào trong những chiến lược  
					phát triển và củng cố hệ thống ngân hàng thương mại của Việt Nam hiện nay.  
					Mặc dù chi phí đầu tư ban đầu lớn nhưng xét về tổng thể, thanh toán thẻ sẽ  
					giảm chi phí cho nền kinh tế về in tiền, hủy tiền hiện nay, hạn chế tiền giả, tăng  
					tính minh bạch trong nền kinh tế, kích thích tiêu dùng và đồng thời giúp cho  
					việc chống tham nhũng ở nước ta. Theo nghiên cứu về kinh tế của nhiều nước,  
					họ đều kết luận rằng người sử dụng thẻ tiêu dùng cao hơn dùng tiền mặt. Trong  
					khi Chính phủ Việt Nam đang cần kích cầu nền kinh tế, thiết nghĩ đây có thể sẽ  
					là đòn bẩy quan trọng.  
					2.3  
					ĐÁNG GIÁ THỰC TRẠNG VỀ CÁC HÌNH THỨC THANH  
					TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT  
					2.3.1 MẶT TÍCH CỰC  
					+Thị trường thẻ tín dụng “nóng” trở lại .  
					Sau thời kỳ hoàng kim những năm đầu thập kỷ 90, tình hình sử dụng  
					thẻ tín dụng tại Việt Nam đã chững hẳn lại, và chỉ gần đây mới sôi động lên  
					với sự tham gia của nhiều ngân hàng phát hành và thanh toán  
					+Là nước đi sau:  
					Chúng ta có thể học hỏi kinh nghiệm của các nước đi trước, nhờ đó có  
					thể tránh được một số rủi ro nhất định.  
					+ Người tiêu dùng Việt Nam  
					Rất nhanh trong việc thích nghi và ứng dụng các dịch vụ mới. Ví dụ :  
					Dịch vụ điện thoại thẻ, điện thoại di động, dịch vụ Internet trong một thời gian  
					ngắn đã phát triển rất nhanh chóng trong khi nhu cầu thực sự không đến mức  
					như vậy. Như vậy không có lý do gì mà không thể phát triển các hình thức  
					thanh toán không dùng tiền mặt – một hình thức thanh toán rất tích cực và văn  
					minh. Đó là xu hướng chung của thế giới.  
					+ Thị trường mấy năm qua va hiên nay  
				Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ  
					(thêm vao trong ổ đia a , hihihihi)  
					2.3.2 MẶT HẠN CHẾ  
					Thời gian không còn sớm đối với yêu cầu phải đẩy nhanh tốc độ phát  
					triển công nghệ ngân hàng đối với các ngân hàng trong nớc. Trong lộ trình hội  
					nhập, những hàng rào bảo hộ dần đợc gỡ bỏ, các ngân hàng trong nớc sẽ phải  
					đối mặt với những cạnh tranh của ngân hàng nớc ngoài mạnh hơn nhiều lần,  
					đặc biệt khi mà chỉ còn vài năm nữa, những rào cản trong lĩnh vực ngân hàng  
					phải đợc dỡ bỏ theo Hiệp định Thơng mại Việt - Mỹ. Hiện tại, nhiều ngân hàng  
					đang chạy đua phát triển đa dạng dịch vụ của mình.  
					Qua thực trạng và các nguyên nhân trên ta có thể đưa ra nhận xét sơ bộ  
					ban đầu như sau :  
					+ Thiếu cơ sở pháp lý cho thanh toán không dùng tiền mặt.  
					Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật Các tổ chức tín dụng là hai văn bản  
					pháp lý cao nhất quy định về hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt  
					(TTKDTM). Tuy nhiên, việc áp dụng thể thức thanh toán này vẫn dựa trên  
					những văn bản dưới luật ra đời cách đó 2-4 năm và đang gây nhiều khó khăn  
					cho hoạt động tài chính.  
					Dùng tiền mặt phổ biến hơn thanh toán qua ngân hàng.  
					+
					Những khó khăn mà các ngân hàng đến nay vẫn đề cập là sự chậm chạp  
					trong việc cải tiến các hình thức thanh toán qua ngân hàng, việc thay đổi tập  
					quán thanh toán tiền mặt trong rất nhiều giao dịch. Đề cập riêng ở lĩnh vực thẻ  
					thanh toán – một phơng tiện thanh toán tiên tiến và phổ biến trên thế giới, thế  
					nhưng đến nay cũng chỉ mới có ba ngân hàng trong nớc là có phát hành thẻ tín  
					dụng quốc tế với số lợng chỉ vài chục ngàn thẻ. Đối với giao dịch của cá nhân  
					trong nước, chỉ mới có 20 ngân hàng đã phát hành thẻ thanh toán. Như vay  
					cũng chưa đủ để hình thức mới này trở nên phổ biến - thanh toán không dùng  
					tiền mặt.  
				Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ  
					+ Thu nhập bình quân chưa cao  
					Thu nhập của dân cư nói chung còn thấp, nhu cầu thiết yếu dân cư còn mua ở  
					chợ “ tự do” là chủ yếu; thêm vào dó la thói quen sự dụng tiền mặt đơn giạn  
					thuận tiện bao đời nay không dễ một sớm , một chiều thay đổi được; đòng thời  
					muốn sự dụng phương tiện thanh toán hiện đại lại cũng cần co sợ hiểu biết nhất  
					định  
					+ Cơ sở hạ tầng công nghệ thanh toán  
					Đang trong giai đoạn hình thành với việc vận dụng các kỹ thuật , qui  
					trình công nghệ thông tin, thanh toán hiện đại, một vấn đề phức tập rất cần có  
					sự phối hợp trên nhiều phương tiện : vốn, phương tiện thanh toán va kỹ thuật  
					thanh toán mới tiên tiến, lượng thời gian cần thiết trình độ tổ chức vận hành  
					thực hiện. V. v.  
					Đồng thời các khu công nghiệp, siêu thị tập trung chưa phát triển , dang  
					trong giai đoạn qui hoạch , nên chư có điều kiện thu hút tiêu dùng cua dân cư,  
					nên chưa được sụ dụng các công nghệ hiện đại tương thích.  
					+Các ngân hàng vẫn thiếu sự hợp tác với nhau.  
					Mặc dù có những nỗ lực cải tiến công nghệ, đa dạng các dịch vụ ngân  
					hàng, nhưng theo nhiều ý kiến chuyên viên, việc tự mỗi ngân hàng vận động  
					mà không có sự hợp tác đã làm giảm đi hiệu quả đầu tư, đơn cử như trong lĩnh  
					vực phát hành và thanh toán thẻ. Mới đây nhất là việc cùng lúc nhiều ngân  
					hàng cùng tự trang bị máy rút tiền tự động ATM chỉ để sử dụng cho thẻ của  
					riêng ngân hàng mình. Theo Trung tâm thẻ ACB, chi phí đầu tư trang bị và vận  
					hành máy ATM không nhỏ. Trung bình giá mỗi máy ATM khoảng 30.000  
					USD, nhưng đáng kể hơn còn chi phí tốn kém thường xuyên trong các hoạt  
					động phục vụ khách hàng từ máy này. Trong khi đó, mỗi máy lại chỉ phục vụ  
					cho việc rút tiền của một loại thẻ thay vì cần đợc sử dụng chung cho các loại  
					thẻ của các ngân hàng khác nhau.  
				Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ  
					Tuy đi sau nhưng chúng ta đang đi theo vết xe đổ của một số nước trong  
					khu vực : Sảy ra tình trạng trong một cửa có hàng chục loại máy ATM của các  
					ngân hàng khác nhau.  
					Tại sao chúng ta không thống nhất sử dụng một chuẩn công nghệ chung,  
					như thế vừa tiết kiệm, vừa thuận lợi cho khách hàng, lại vừa dễ quản lý ?  
					Chương 3  
					GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN CÁC HÌNH THỨC THANH TOÁN KHÔNG  
					DÙNG TIỀN MẶT TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY.  
					3.1 Một số đinh hướng phát triển các hình thức thanh toán không dùng tiền  
					mặt tại việt nam.  
					+ Hình thành môi trường minh bạch, lành mạnh và bình đẳng cho hoạt  
					động tiền tệ - ngân hàng. Ứng dụng phổ biến công nghệ thông tin, mở rộng  
					nhanh các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt và thanh toán qua ngân  
					hàng. Đa dạng hóa các hình thức huy động vốn, cho vay, cung ứng các dịch vụ  
					và tiện ích ngân hàng thuận lợi và thông thoáng đến mọi doanh nghiệp và dân  
					cư, đáp ứng kịp thời các nhu cầu vốn tín dụng cho sản xuất, kinh doanh và đời  
					sống, chú trọng khu vực nông nghiệp, nông thôn.  
					+ Hình thành đồng bộ khuôn khổ pháp lý, áp dụng đầy đủ hơn các thiết chế  
					và chuẩn mực quốc tế về an toàn trong kinh doanh tiền tệ - ngân hàng.  
					+ Cùng với việc sắp xếp lại bộ máy tổ chức, đào tạo cán bộ, xây dựng hoàn  
					chỉnh cơ chế chính sách, hệ thống thanh tra, kiểm soát... Ngành Ngân hàng cần  
					đặc biệt chú ý đến lĩnh vực đầu tư đổi mới công nghệ, ứng dụng nhanh sự tiến  
					bộ của Khoa học Công nghệ thông tin (CNTT) trong hoạt động Ngân hàng.  
					+ Ứng dụng các thiết bị hiện đại cho hoạt động Ngân hàng.  
					Trong cơ chế thị trường, để phục vụ cho nền kinh tế, tăng cường sức cạnh  
					tranh lành mạnh của từng Ngân hàng: Mở rộng, đa dạng các loại hình dịch vụ  
					và hoạt động Ngân hàng của một Ngân hàng hiện đại, nhất thiết phải đầu tư,  
					trang bị các phương tiện kỹ thuật tiên tiến, xây dựng một hệ thống kỹ thuật  
				Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ  
					công nghệ thông tin hiện đại. Việc xác định điểm xuất phát, lựa chọn giải pháp  
					và hướng đi là bài toán khó, cho dù chúng ta có lợi thế của "người đi sau",  
					thông qua những kinh nghiệm của "người đi trước". Tuy nhiên, vấn đề này  
					phải được nghiên cứu thận trọng, tỷ mỷ, khoa học trên cơ sở phù hợp với điều  
					kiện kinh tế Việt Nam để quyết định một hướng đi, một giải pháp khoa học.  
					Chúng ta không thể theo giải pháp "đóng" của các nước đã đi trước khi mà xu  
					thế của thế giới là toàn cầu hóa, đa dạng hóa. Giải pháp "mở" sẽ tạo ra chúng ta  
					nhiều cơ hội thuận lợi trong đầu tư những thiết bị mạnh nhất, phù hợp với khả  
					năng tài chính và kỹ thuật.  
					+ Nhân lực cho công nghệ. Đây là yếu tố rất quan trọng, quyết định mọi sự  
					thành công.  
					Khi đổi mới từ cơ chế quản lý kế hoạch hóa sang cơ chế thị trường có sự  
					quản lý của Nhà nước, không chỉ trang bị thêm cho đội ngũ cán bộ Ngân hàng  
					kiến thức quản lý mới, nghiệp vụ mới, mà còn phải trang bị thêm những kiến  
					thức công nghệ hiện đại, thay đổi cách nghĩ, cách làm, kỹ năng mới. Trong  
					chiến lược cán bộ thì đào tạo, đào tạo lại đội ngũ cán bộ Ngân hàng hiện có  
					mang ý nghĩa quan trọng; bởi lẽ, đây là đội ngũ nòng cốt, có bề dày công tác,  
					nhiều kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ. Đồng thời, tăng cường chất  
					lượng lực lượng cán bộ trẻ được đào tạo chính quy tại các trường đại học trong  
					nước, ngoài nước để vận hành, quản lý Ngân hàng hiện đại trong tương lai. Khi  
					đó, không chỉ đơn thuần trong mối quan hệ điều hành giữa Người với Người  
					trước đây, nó được thay thế bằng mối quan hệ giữa Người với Máy tính. Sự  
					điều hành, tác nghiệp của mỗi cán bộ Ngân hàng trên cơ sở những thông tin  
					chính xác do máy tính thu nhận, phân tích và cung cấp. Vì vậy, đòi hỏi từ thực  
					tiễn phải chuẩn bị một lực lượng khoa học công nghệ cho hiện tại và tương lai.  
					+ Sử dụng các công cụ Marketing nâng cao khả năng cạnh tranh của các ngân  
					hàng.  
					3.2 Giải pháp.  
				Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ  
					Qua việc phân tích thực trạng, thuận lợi, khó khăn và hướng phát triển nêu  
					trên, để có thể mở rộng hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt, phát huy  
					đầy đủ thế mạnh và vai trò của nó trong nền kinh tế thiết nghĩ cần phải thực  
					hiện một số giải pháp sau :  
					+ thứ nhất, xây dựng và ban hành hệ thống các văn bản pháp quy có hiệu  
					lực cao để tạo môi trường và hành lang pháp lý vững chắc cho các hoạt động  
					thanh toán.  
					Cần hoàn thiện Luật Séc. Hiện nay Séc vẫn là công cụ thanh toán rất phổ biến  
					ngay cả khi có các công cụ thanh toán mới xuất hiện như thẻ thanh toán. Do  
					vậy cần hoàn thiện luật Séc, có vậy thì mới điều chỉnh được các quan hệ về  
					nghĩa vụ, trách nhiệm và quyền lợi của các bên liên quan. Cả khách hàng và  
					ngân hàng sẽ thực sự yên tâm hơn khi sử dụng Séc.  
					+ Thứ hai, thúc đẩy nhanh quá trình hiện đại hoá công nghệ ngân hàng.  
					Đầu tư trang thiết bị hiện đại, đổi mới công nghệ ngân hàng để thực hiện nhanh  
					chóng, an toàn và chính xác là chủ trương lớn mà nghành ngân hàng đã đề ra  
					từ nhiều năm nay.  
					- Ngân hàng nhà nước phải có kế hoạch, biện pháp tiếp nhận và sử dụng  
					hợp lý các nguồn tài trợ của nước ngoài, đặc biệt là của WorldBank.  
					- Ngân hàng nhà nước và các ngân hàng thương mại phải phối hợp với  
					nhauđể nghiên cứu xây dựng quy trình chuyển tiền thanh toán điện tử đồng bộ,  
					thống nhất dựa trên một số nguyên tắc chung nhất. Tránh tình trạng tự phát gây  
					sự lãng phí lớn và thiếu đồng bộ.  
					+ Thứ ba, là tiếp tục triển khai, khuyến khích tổ chức cá nhân mở tài khoản  
					và thanh toán tại ngân hàng.  
					- Ngân hàng phải cung cấp các thông tin về hoạt động của ngân hàng,  
					các tiện ích của các dịch vụ mà ngân hàng cung ứng bằng cách tuyên truyền,  
					quảng cáo bằng nhiều hình thức khác nhau. Đây phải là việc làm thường xuyên  
				Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 30 trang mẫu của tài liệu "Đề án Một số giải pháp phát triển các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
        
        
        File đính kèm:
de_an_mot_so_giai_phap_phat_trien_cac_hinh_thuc_thanh_toan_k.pdf

