Đề tài Nguồn gốc lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2000-2010: Phát hiện mới từ những bằng chứng mới
Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách
Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội
Nguồn gốc lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2000-2010:
1
phát hiện mới từ những bằng chứng mới
Nguyễn Thị Thu Hằng2, Nguyễn Đức Thành3
Phiên bản ngày 2/3/2011
1 Bài viết này là một phiên bản tiếng Việt rút gọn từ bài nghiên cứu của Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chính
sách Việt Nam (VEPR) và UNDP Việt Nam. Bài nghiên cứu đầy đủ (tiếng Anh) có thể tải từ địa chỉ :
Nhóm tác giả xin chân thành cảm ơn Alex Warren-Rodriguezlex, nguyên chuyên gia kinh tế của UNDP Việt Nam
về những thảo luận kịp thời và hỗ trợ hữu ích để nghiên cứu này có thể được thực hiện. Chúng tôi đánh giá cao
những nỗ lực của Nguyễn Ngọc Bình, nghiên cứu viên tại VEPR, về những hỗ trơ trong quá trình nghiên cứu.
1
Giới thiệu
Trong bối cảnh bất ổn vĩ mô vẫn tiếp tục tích lũy và có dấu hiệu bùng phát vào những tháng đầu
năm 2011, lạm phát trở thành một trong bốn vấn đề gay gắt nhất liên quan đến bình ổn vĩ mô
(cùng với quản lý tỷ giá, thâm hụt thương mại và thâm hụt ngân sách).
Tuy nhiên, nếu nhìn lại toàn cảnh quá trình cải cách kinh tế của Việt Nam trong hơn hai thập kỷ
qua, thì lạm phát, đặc biệt là các nhân tố quyết định lạm phát và những biến động của lạm phát là
một trong những chủ đề được thảo luận nhiều nhất ở Việt Nam. Nguyên nhân của điều này rất rõ
ràng, vì lạm phát đã luôn là một trong những vấn đề dai dẳng gây nhức nhối nhất, làm tổn
thương nhất đối với nền kinh tế Việt Nam. Việt Nam đã trải qua giai đoạn siêu lạm phát trong
những năm 1980 và đầu những năm 1990 ngay khi bắt đầu những cải cách kinh tế đầu tiên.
Ngoại trừ giai đoạn 2000-2003 khi lạm phát thấp và ổn định ở mức 5% trở xuống, tỷ lệ lạm phát
ở Việt Nam thường xuyên cao hơn, lạm phát kéo dài lâu hơn và dao động mạnh hơn so với lạm
phát ở các nước láng giềng. Hiểu rõ các nguyên nhân và hậu quả của những vấn đề này có ý
nghĩa quan trọng đối với việc đánh giá tác động của các chính sách vĩ mô đối với nền kinh tế.
Những sự kiện gần đây như việc Việt Nam gia nhập WTO, luồng vốn nước ngoài đột
ngột chảy mạnh vào Việt Nam trong hai năm 2007-2008, các vấn đề của thị trường ngoại hối
Việt Nam trong hai năm 2009 và 2010 và cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới cũng như nguy cơ
lạm phát tăng mạnh trở lại đã đặt ra nhiều thách thức mới cho việc quản lý kinh tế vĩ mô và đặc
biệt trong việc kiểm soát lạm phát ở Việt Nam. Hàng loạt những thay đổi trong môi trường vĩ mô
và chính sách kinh tế trong những năm vừa qua đã đặt ra yêu cần cần có một cách tiếp cận
hệthống và toàn diện nhằm xác định những nhân tố vĩ mô quyết định lạm phát trong bối cảnh
mới của Việt Nam.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng phương pháp tiếp cận dựa trên các phân tích
định lượng nhằm xác định và tìm hiểunhững nguyên nhân cơ bản của lạm phát ở Việt Nam trong
một thập kỷ gần đây, từ năm 2000 đến 2010. Những nghiên cứu đã có về lạm phát ở Việt Nam
tập trung chủ yếu vào các nhân tố “cầu kéo” của lạm phát và bỏ qua các nhân tố “chi phí đẩy”.
Nhân tố duy nhất từ phía cung được đưa vào các nghiên cứu này là giá quốc tế (thường được coi
là cú sốc cung từ bên ngoài). Đồng thời, một nhân tố quan trọng từ phía cầu chưa được nghiên
cứu (định lượng) là vai trò của thâm hụt ngân sách và nợ công đến lạm phát. Nghiên cứu này hi
2
vọng sẽ đem đến cho những thảo luận chính sách hiện nay ở Việt Nam một nghiên cứu vĩ mô
đáng tin cậy với phương pháp mang tính khoa học và dựa vào các bằng chứng thực nghiệm về
các nguyên nhân của lạm phát. Vì kiểm soát lạm phát là một trong những mối quan tâm hàng đầu
trong chính sách kinh tế vĩ mô của năm nay và năm tới, nghiên cứu hi vọng sẽ làm rõ các vấn đề
liên quan đến lạm phát và đóng góp vào quá trình xây dựng chính sách.
Tổng quan kinh tế Việt Nam và những biến động của lạm phát trong giai
đoạn 2000-2010
Tổng quan kinh tế Việt Nam, 2000-2010
Tăng trưởng kinh tế
Trong thập kỷ đầu tiên của thế kỷ XXI, Việt Nam chứng kiến một giai đoạn tăng trưởng kinh tế
có tốc độ chững lại so với thập niên trước đó. Vào cuối thập niên 1990, đà tăng trưởng kinh tế
của Việt Nam chậm lại vì những dấu hiệu do dự trong tiến trình cải cách kinh tế xuất hiện từ năm
1996 và những ảnh hưởng lan truyền tiêu cực từ cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á 1997. Hậu
quả của tình trạng này là nền kinh tế trải qua một giai đoạn suy giảm tốc độ tăng trưởng đi liền
với hiện tượng giảm phát trong những năm 1999-2001 (xem Hình 1).
Hình 1. Tăng trưởng kinh tế và lạm phát, 1995-2009
25
20
15
10
5
0
-5
Năm
Tăng trưởng GDP
Lạm phát
Nguồn: tác giả tổng hợp từ GSO(2010)
3
Trước tình hình đó, một kế hoạch kích thích kinh tế thông qua nới lỏng tín dụng và mở
rộng đầu tư nhà nước bắt đầu được thực hiện từ năm 2000. Việc duy trì chính sách kích thích
tương đối liên tục trong những năm sau đó, một mặt giúp nền kinh tế lấy lại phần nào đà tăng
trưởng, nhưng mặt khác đã tích tụ những mầm mống gây ra lạm phát cao bắt đầu bộc lộ từ giữa
năm 2007. Thêm vào đó, việc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào tháng 11/2006
mở ra một thời kỳ hội nhập sâu rộng chưa từng có, khiến mức độ giao lưu thương mại và đầu tư
quốc tế tăng vọt, làm dòng vốn vào (cả đầu tư trực tiếp lẫn gián tiếp) tăng mạnh. Nhu cầu ổn
định đồng tiền Việt đòi hỏi Ngân hàng Nhà nước phải trung hòa một lượng ngoại tệ rất lớn, góp
phần thổi bùng lạm phát trong năm 2008. Nhìn chung, việc kiểm soát vĩ mô trong giai đoạn này
tỏ ra lúng túng. Cộng với những tác động to lớn của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới, trong hai
năm 2008-2009, nền kinh tế phải hứng chịu thời kỳ tăng trưởng kinh tế ở mức thấp đi liền với
lạm phát cao.
Ngân sách nhà nước
Đặc điểm căn bản của ngân sách nhà nước là sự thâm hụt triền miên ở mức cao. Đồng thời, nợ
công có khuynh hướng tăng liên tục trong 10 năm qua.Năm 2009 có thâm hụt đặc biệt cao vì đây
là năm thực hiện gói kích thích kinh tế lớn để chống suy thoái kinh tế.
Hình 2. Thu-chi và thâm hụt ngân sách, 2000-2009
35
30
25
20
15
10
5
0
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
-5
-10
-15
Năm
Tổng thu Tổng chi NS Thâm hụt ngân sách
Nguồn: tác giả tổng hợp từ IMF (2003, 2006, 2009)
4
Thương mại quốc tế và tỷ giá
Thương mại quốc tế là một lĩnh vực đặc biệt phát triển của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Việt Nam ngày càng hội nhập sâu, rộng vào nền kinh tế toàn cầu, với những hiệp định thương
mại tự do song phương được ký kết, đồng thời tham gia vào các tổ chức đa biên, trong đó phải kể
tới việc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới.Tuy nhiên, cần phải thừa nhận rằng việc hội
nhập sâu vừa mang lại cho Việt Nam nhiều cơ hội, đồng thời cũng buộc đất nước phải đối diện
với nhiều thách thức mới. Đặc điểm đáng lưu ý là kể từ năm 2002, cán cân vãng lai trở lại tình
trạng thâm hụt mà nguyên nhân chủ yếu bắt nguồn từ thâm hụt thương mại mặc dù dòng kiều hối
chảy về trong nước và các dòng vốn chảy vào Việt Nam bắt đầu gia tăng ổn định và giúp cân đối
phần nào cán cân vãng lai. Khi các dòng vốn có dấu hiệu chững lại do cuộc khủng hoảng kinh tế
thế giới nổ ra vào năm 2008, thì thâm hụt vãng lai lại không có khuynh hướng thu hẹp. Kết quả
là, Việt Nam buộc phải giảm mạnh dự trữ ngoại hối để bù đắp cho phần ngoại tệ bị thiếu hụt.
Hình 3. Thâm hụt cán cân vãng lai và dự trữ ngoại hối, 2000-2009
6
4
2
0
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
-2
-4
-6
-8
-10
-12
Thâm hụt vãng lai (% GDP) Dự trữ ngoại hối (tháng nhập khẩu)
Nguồn: tác giả tổng hợp từ IMF (2003, 2006, 2009)
Thâm hụt vãng lai liên tục, đi cùng với mức lạm phát cao trong nước, khiến tỷ giá thực tế
của VND so với USD trong những năm gần đây giảm mạnh mặc dù tỷ giá danh nghĩa có xu
hướng tăng lên rõ rệt, và khoảng cách giữa hai tỷ giá ngày càng mở rộng, đặc biệt là hai năm
2008 và 2009 (xem Hình 4). Nếu lấy năm 2000 làm gốc thì đồng Việt Nam đã lên giá thực tế xấp
5
xỉ 38%. Điều này hẳn đã góp phần khiến thâm hụt thương mại của Việt Nam trở nên trầm trọng
từ sau năm 2003.
Hình 4. Tỷ giá thực tế và tỷ giá danh nghĩa VND/USD, 2000-2009
(năm 2000 là năm gốc)
Nguồn: Nguyễn Thị Thu Hằng và các đồng tác giả. (2010)
Tóm lại, có thể khái quát một số đặc điểm kinh tế vĩ mô của Việt Nam như sau:
-
Tăng trưởng đạt mức cao so với khu vực, nhưng đang có khuynh hướng chậm lại; đồng
thời, tăng trưởng vẫn lệ thuộc nhiều vào mở rộng đầu tư.
-
Nền kinh tế ngày càng trở nên bất ổn khi hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới (lạm phát
dao động mạnh hơn);
-
-
Ngân sách thâm hụt triền miên, đi liền với thâm hụt thương mại (thâm hụt kép);
Ngay cả khi được hỗ trợ bởi một dòng kiều hối lớn, cán cân vãng lai vẫn thâm hụt. Cán
cân tổng thể được hỗ trợ bởi mức thặng dư cao từ cán cân vốn. Tuy nhiên, chịu ảnh
hưởng của điều kiện quốc tế, các dòng vốn đang dần có khuynh hướng kém ổn định hơn,
dẫn tới khả năng cán cân tổng thể có những dao động lớn, chuyển từ thặng dư sang thâm
hụt.
-
Chính sách tỷ giá neo một cách linh hoạt (crawling peg) vào đồng USD, nhưng có
khuynh hướng đánh giá cao đồng nội tệ.
6
Những biến động trong lạm phát của Việt Nam trong mối quan hệ với những thay
đổi cơ bản trong môi trường và chính sách kinh tế
Việt Nam trải qua siêu lạm phát trong nửa cuối những năm 1980 (với tỷ lệ trên 300%/năm) và
đầu những năm 1990 (với tỷ lệ trên 50%/năm). Những nguyên nhân cơ bản của tình trạng này là
điều kiện thời tiết bất lợi, thiếu hụt lương thực, tốc độ tăng trưởng chậm chạp trong cả lĩnh vực
nông nghiệp và công nghiệp và hệ thống tài chính yếu kém trong suốt những năm 1980. Những
cuộc khủng hoảng này được tiếp nối bởi sự tự do hóa hàng loạt các loại giá cả và một loạt các cải
cách cơ cấu kinh tế khiến lạm phát tăng cao và trở thành một cuộc khủng hoảng.
Đối mặt với những cuộc khủng hoảng này, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã phải tích
cực thắt chặt chính sách tiền tệ với lãi suất tháng tăng lên đến 12% và tỷ giá được giữ cố định
hoàn toàn so với USD. Kết quả của những chính sách này là lạm phát bắt đầu giảm mạnh xuống
dưới 20% năm 1992 và gần 10% năm 1995. Đây là một thành tựu rất đáng tự hào của Việt Nam
khi nền kinh tế bước vào quá trình hội nhập quốc tế vào nửa sau của thập niên 1990.
Chính phủ tiếp tục các chính sách vĩ mô thận trọng cùng với những cải cách sâu rộng
nhằm tự do hóa giá cả trong nước và mở cửa nền kinh tế Việt Nam cho thương mại và đầu tư
quốc tế trong những năm 1990. Giai đoạn sau năm 1995 chứng kiến cuộc khủng hoảng Châu Á
và hệ quả của nó giá cả thế giới và tổng cầu (cầu về hàng hóa trong nước và cầu hàng Việt Nam
từ quốc tế) giảm mạnh. Giai đoạn này được đánh dấu bởi tỷ lệ lạm phát thấp, thậm chí có thời kỳ
giảm phát nhẹ đầu tiên vào năm 2000 với tỷ lệ lạm phát được tính là -0,5% mặc dù tiền tệ và tín
dụng tăng rất nhanh (30-40%/năm) và Việt Nam phá giá mạnh (khoảng 36%) trong giai đoạn
1997-2003. Lãi suất cũng dần được tự do hóa từ giữa những năm 1990 với lãi suất cơ bản được
áp dụng thay cho trần lãi suất cho vay vào tháng 8 năm 2000. Và từ năm 2002, các ngân hàng
thương mại ở Việt Nam được phép đặt lãi suất cho vay và lãi suất tiết kiệm theo các điều kiện thị
trường.
Hình5.Tỷ lệ lạm phát Việt Nam, tốc độ tăng cung tiền và tín dụng, 1996-2009
7
Nguồn: IFS vàNHNN, 2010
Sau giai đoạn ổn định ở mức thấp này, lạm phát bắt đầu tăng trở lại với tỷ lệ 9,5% trong
năm 2004 cao hơn rất nhiều so với mục tiêu 6% mà Chính phủ đặt ra. Hình 5 cho thấy tiền tệ/ tín
dụng và lạm phát có mối tương quan rõ ràng hơn từ năm 2003. Khi tiền tệ/tín dụng tăng thì lạm
phát cũng tăng theo. Khi các tác động tiêu cực đối với tăng trưởng của khủng hoảng Châu Á
giảm đi, cầu bắt đầu tăng lên. Cầu tăng lên cùng với sự tăng lên của tiền lương danh nghĩa ở cả
khu vực nhà nước và khu vực FDI trong năm 2003 đã khiến giá cả tăng lên. Đóng góp thêm vào
sự tăng giá này là các cú sốc cung do dịch cúm gà và thời tiết xấu gây ra. Chính phủ nghiêng về
quan điểm coi các cú sốc cung này là các nguyên nhân gây lạm phát. Những cú sốc cung này chủ
yếu ảnh hưởng đến giá lương thực thực phẩm với giá lương thực thực phẩm tăng 15,5% so với tỷ
lệ lạm phát chung là 9,5% và lạm phát phi lương thực thực phẩm là 5,2% trong năm 2004.
Lo lắng về nguy cơ lạm phát trở lại, NHNN lại bắt đầu thắt chặt chính sách tiền tệ khiến
cho lăi suất tăng lên chút ít và giữ cố định tỷ giá từ năm 2004. Bộ Tài chính và NHNN cũng tiếp
tục can thiệp vào lăi suất bằng những biện pháp gián tiếp thay v sử dụng chính sách tiền tệ
́
(Camen, 2006). Đồng thời việc quản lý cứng nhắc tỷ giá hối đoái kéo dài đến tận cuối năm 2008
cũng đă không giúp lặp lại thành công của việc giữ ổn định lạm phát trong giai đoạn 2000-2003.
Lạm phát, sau khi giảm nhẹ trong năm 2006 đă lại tăng mạnh tới 12,6% trong năm 2007 và lên
tới 20% trong năm 2008.
Có nhiều lý do đă được đưa ra nhằm giải thích cho sự tăng mạnh trở lại của lạm phát
trong những năm 2007-2008. Những lư do này bao gồm sự tăng mạnh của mức lương tối thiểu,
8
sự gia tăng của giá cả hàng hóa quốc tế, chính sách tiền tệ lỏng lẻo và không linh hoạt, chính
sách quản lư tỷ giá cứng nhắc và thiếu linh hoạt, sự mở cửa của Việt Nam với thế giới từ khi
Việt Nam gia nhập WTO vào cuối năm 2006 khiến cho luồng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài đổ
vào Việt Nam, đẩy giá chứng khoán và giá tài sản lên rất cao. Để giữ ổn định tỷ giá, NHNN đă
phải bơm một lượng tiền đồng lớn vào nền kinh tế góp phần làm trầm trọng hơn tnh trạng lạm
́
phát.
Chính sách tiền tệ nới lỏng cùng với kỳ vọng lạm phát thường dẫn đến lạm phát thực tế ở
giai đoạn tiếp theo của chu kỳ kinh tế. Chính sách tỷ giá chỉ có tác động cộng hưởng cho các tác
động của chính sách tiền tệ đến nền kinh tế chứ không có tác động mạnh mẽ trực tiếp đến lạm
phát. Sự gia tăng của cung tiền và tín dụng trong nền kinh tế trong cả thập kỷ qua đã rất mạnh
đặc biệt là vào năm 2007 khi tiền tệ tăng với tốc độ 47%/năm và tín dụng tăng 54% /năm.
Hình 6. Tỷ lệ lạm phát của Việt Nam và một số nước, 2000-2009
Nguồn: Nguyễn Thị Thu Hằng và các đồng tác giả (2010)
Hình 6 cho thấy từ năm 2004, Việt Nam đã và đang trải qua giai đoạn lạm phát cao hơn,
dao động lớn hơn và kéo dài hơn so với các đối tác thương mại của mình.
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 2008-2009 đã góp phần làm giảm lạm phát ở Việt
Nam từ cuối năm 2009. Giá quốc tế giảm cùng với tổng cầu giảm đã giúp Việt Nam đảo ngược
xu thế gia tăng đáng ngại của lạm phát trong năm 2008. Khi các gói kích cầu của Chính phủ bắt
đầu gia tăng từ quý II năm 2009, cung tiền cũng bắt đầu tăng mạnh và tín dụng cũng có dấu hiệu
tương tự. Các ngân hàng thương mại trở nên thiếu hút tiền mặt và đều cố gắng tăng lãi suất nhằm
9
thu hút tiền gửi. Vì vậy, cuộc cạnh tranh lãi suất đã bắt đầu khiến cho lãi suất cho vay bị đẩy lên
cao (vượt trần lãi suất do các khoản phí cho vay).
Trong năm 2010, do dịp Tết nguyên đán và việc tăng giá điện, lạm phát trong hai tháng
đầu năm tăng cao. Năm tháng tiếp theo của năm 2010 chứng kiến tỷ lệ lạm phát tương đối ổn
định ở mức thấp chứng tỏ các biện pháp kiểm soát lạm phát của Chính phủ đã có tác động. Tuy
nhiên, lạm phát lại tăng trở lại mạnh mẽ từ tháng 9 năm 2010 khiến cho chỉ số giá tiêu dùng CPI
cho 11 tháng đã tăng lên đến 9,58% so với20,71% và5,07% của cùng kỳ năm 2008 và 2009.
Việc phá giá VND so với USD trong tháng 8 năm 2010 và biến động của thị trường vàng trong
nước và quốc tế vừa qua được coi là một vài trong số những nguyên nhân chủ yếu khiến cho
lạm phát tăng cao lúc này.
Việt Nam vẫn có những nguy cơ tiềm tàng khiến cho lạm phát có thể vẫn tiếp tục tăng
cao: (i) giá của một loạt các mặt hàng cơ bản như điện và xăng dầu vẫn bị kiểm soát; (ii) VND
vẫn đang chịu áp lực mất giá dù NHNN đã phá giá 2 lần trong năm 2010; (iii) giá cả ở Trung
Quốc cũng đang tăng lên khiến cho chi phí nhập khẩu cho các công trình cơ sở hạ tầng với
nguyên liệu nhập khẩu chủ yếu ở Trung Quốc cũng tăng lên và (iv) áp lực mới lỏng tiền tệ sẽ gia
tăng vì lãi suất hiện giờ đang cao. Một phần những nguy cơ này đã trở thành hiện thực trong
những tháng vừa qua của năm 2010.
Tác động bất lợi của lạm phát đối với nghèo đói và tăng trưởng đã được nhiều tác giả bàn
đến. Lạm phát làm tăng bất bình đẳng về thu nhập vì nó giống như một thứ thuế lũy tiến đối vói
người nghèo. Nếu các hộ nghèo chủ yếu nắm giữ tài sản của mình dưới dạng tiền mặt hay cùng
lắm là tiền gửi ngân hàng thay vì các loại tài sản tài chính khác như ở Việt Nam hiện nay thì lạm
phát cao sẽ nhanh chóng làm giảm sức mua của họ. Lạm phát cao cũng ảnh hưởng đến tăng
trưởng, làm nhiễu các tín hiệu về giá cả và hạn chế chất lượng cũng như khối lượng đầu tư. Đồng
thời nó cũng có thể có tác động tiêu cực đến tính cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu của một
nước do giá cả sản xuất trong nước tăng cao và do tỷ giá thực tế tăng lên. (Easterly and Fischer,
2001).
Hình 7. Lạm phát hàng năm (theo tháng), 2000-2010 (%)
10
Nguồn: GSO, 2010
Những nhận định này còn có tác động mạnh hơn trong trường hợp của Việt Nam khi
lương thực thực phẩm luôn chiếm từ 40% đến 50% giỏ hàng hóa tiêu dùng trong giai đoạn 2000-
2010. Trong khi giá cả phi lương thực thực phẩm tăng 1,7 lần so với năm 2000 thì giá lương thực
thực phẩm đã tăng hơn 2,6 lần trong cùng giai đoạn với chỉ số giá chung tăng khoảng hơn 2 lần.
Đồng thời Hình 7 còn cho thấy rằng giá lương thực thực phẩm biến động mạnh hơn nhiều so với
giá phi lương thực thực phẩm. Giá lương thực thực phẩm biến động sát với chỉ số giá chung hơn
và cho thấy hai lần lên cao rõ rệt vào năm 2004 và 2008. Vì lương thực thực phẩm chiếm một tỷ
trọng lớn trong giỏ hàng hóa CPI và giá lương thực thực phẩm dễ dao động hơn so với các hàng
hóa khác trong giỏ hàng hóa nên khi một yếu tố tác động đến mức giá chung sẽ nhanh chóng tác
động và làm tăng giá lương thực thực phẩm. Nói cách khác, giá lương thực thực phẩm phản ánh
những biến động của lạm phát nhưng bản thân nó không phải là nguyên nhân gây lạm phát.
Tổng quan về những biến động của lạm phát ở Việt Nam trong giai đoạn 2000-2010 đã
giúp chúng tôi xác định những nhân tố tiềm năng có thể gây ra lạm phát. Những nhân tố này bao
gồm các cú sốc từ bên ngoài, điều kiện tiền tệ và tín dụng, chính sách quản lý tỷ giá, các chính
sách của Chính phủ tác động đến tổng cầu và các cú sốc cung khác.
11
Tổng quan những kết quả nghiên cứu trước đây về các nhân tố vĩ mô quyết
định lạm phát
Các nghiên cứu quốc tế
Lạm phát đã được nghiên cứu rất sâu trong các nghiên cứu lý thuyết cũng như thực nghiệm cho
từng nước cụ thể. Chúng ta không thể bắt đầu thảo luận về các nhân tố quyết định lạm phát mà
không nói đến các ý tưởng và các mô hình kinh điển được xây dựng bởi các nhà kinh tế nổi
tiếng. Lý thuyết về lạm phát hiện nay chủ yếu dựa trên mô hình đường Phillips do Phillips
(1958) và Lipsey (1950) phát triển dựa trên giả định rẳng giữa tỷ lệ thất nghiệp và tỷ lệ lạm phát
có một mối quan hệ ổn định và tỷ lệ nghịch. Từ những năm 1950 đến nay, mô hình đường
Phillips đã được bổ sung sửa đổi liên tục bởi hàng loạt các nhà kinh tế nổi tiếng như Friedman
(1960),
Phelps
(1967),Sargent
(1971),
Lucas
(1972),Fischer
(1977),
Taylor
(1979)Calvos(1983),Gali và Gertler (1999),Woodford (2003)vàChristiano, Eichenbaum, và
Evans (2005).
Trái nghịch với quan điểm của trường phái Keynes rằng nền kinh tế thực rất không ổn
định và việc quản lý cung tiền hầu như không có tác động đến nền kinh tế thực, trường phái tiền
tệ (sáng lập bởi Milton Freidman) cho rằng nền kinh tế thực là khá ổn định nhưng có thể bị bất
ổn do những biến động trong cung tiền và vì vậy chính sách tiền tệ có ý nghĩa quan trọng. Sự gia
tăng không tính toán trước của cung tiền có thể do việc in tiền quá mức nhằm tài trợ ngân sách
hoặc cho khu vực tư nhân vay quá mức. Vì vậy, mô hình về các tác nhân của lạm phát do một
nhà kinh tế học tiền tệ xây dựng thường phụ thuộc vào tốc độ tăng cung tiền, tốc độ tăng thu
nhập và chi phí cơ hội của việc giữ tiền. Lãi suất và lạm phát trong quá khứ là những biến đã
được sử dụng để đo lường chi phí cơ hội của việc giữ tiền.
Tuy nhiên, cách tiếp cận của các nhà kinh tế học tiền tệ đến lạm phát xuất phát từ các
nước phát triển nơi hệ thống tài chính đã hoàn thiện và tồn tại rất ít các bế tắc về cơ cấu như ở
các nước đang phát triển. Cách tiếp cận cơ cấu đến các nhân tố quyết định lạm phát coicác yếu tố
cứng nhắc là nguyên nhân gây áp lực lạm phát. Những áp lực lạm phát như vậy ở các nước đang
phát triển có thể do các chính sách không phù hợp của Chính phủ, chênh lệch về năng suất lao
động ở các khu vực của nền kinh tế, việc tăng lương, cung lương thực thực phẩm thiếu co giãn,
các hạn chế về ngoại hối cũng như những hạn chế về ngân sách. Những yếu tố cứng nhắc này
dẫn đến việc giá cả và lạm phát tăng lên (Akinboade et.al. 2004). Các nhà kinh tế học cơ cấu
cũng coi các cú sốc “thực” đối với nền kinh tế như sự gia tăng của giá hàng hóa nhập khẩu hay
12
sự tăng lên đột ngột của thâm hụt ngân sách là những nguyên nhân gây lạm phát. Họ gọi chúng
là các nhân tố “chi phí đẩy” tác động đến lạm phát vì về cơ bản những nhân tố này làm tăng chi
phí sản xuất và gây áp lực tăng giá trong một bộ phận nhất định của nền kinh tế. Thông thường
thì những nhân tố như vậy sẽ làm tăng cung tiền và do đó lạm phát xuất phát từ một khu vực của
nền kinh tế sẽ lan tỏa ra toàn bộ nền kinh tế (Greene, 1989).
Bên cạnh hai cách tiếp cận của các nhà kinh tế học tiền tệ và kinh tế học cơ cấu, các
nghiên cứu trong quá khứ về lạm phát còn đưa ra một cách tiếp cận thứ ba và có lẽ đơn giản nhất
trong việc nghiên cứu các nhân tố quyết định lạm phát: cách tiếp cận ngang bằng sức mua-
purchasing power parity (PPP). Cách tiếp cận này xuất phát từ Luật Một Giá với nội dung là khi
không tính đến chi phí vận chuyển và các chi phí giao dịch khác, mối quan hệ giữa giá thế giới
và giá trong nước trở thành
trong đóE là tỷ giá giữa đồng ngoại tệ và đồng nội tệ.
Cách tiếp cận này gợi ý rằng lạm phát chịu ảnh hưởng hoặc gián tiếp từ giá nhập khẩu
cao hơn hoặc trực tiếp từ sự gia tăng của cầu trong nước. Phương trình này ngầm ý rằng tỷ giá
đóng vai trò nhất định trong việc quyết định mức giá và mức chuyển tỷ giá vào lạm phát cần phải
được xem xét. Sự phá giá đồng nội tệ có thể trực tiếp tác động lên giá trong nước của hàng hóa
thương mại nhưng cũng có thể gián tiếp tác động vào mức giá chung nếu các quyết định về giá
chịu ảnh hưởng của chi phí nhập khẩu. Điều này đặc biệt đúng đối với những nước dựa vào việc
nhập khẩu hàng hóa trung gian phục vụ sản xuất và/hoặc có hiện tượng đô la hóa cao như Việt
Nam.
Một nghiên cứu điển hình gần đây về các nhân tố quyết định lạm phát trong một nền kinh
tế nhỏ và mở thường sử dụng cả ba cách tiếp cận. Ví dụ, Chhibber (1991), đã xây dựng mô hình
lạm phát là trung bình gia quyền của lạm phát của hàng hóa thương mại, lạm phát của hàng hóa
phi thương mại và lạm phát của các hàng hóa bị kiểm soát và áp dụng nó cho một loạt các nước
Châu Phi. Lạm phát hàng hóa thương mại được mô phỏng theo cách tiếp cận PPP. Lạm phát
hàng hóa phi thương mại được mô phỏng dựa trên các nhân tố chi phí đẩy và cầu kéo của lạm
phát. Ngoài ra còn phải kể đến hàng loạt các nghiên cứu thực nghiệm khác như Lim và Papi
(1997) về lạm phát Thổ Nhĩ Kỳ, Laryea và Sumaila (2001) về lạm phát ở Tanzania,Akinboade
và đồng tác giả (2004) về mối quan hệ giữa lạm phát ở Nam Phi với thị trường tiền tệ, thị trường
lao động và thị trường ngoại hối,Lehayda(2005) về lạm phát ở Ukraine hay Jongwanich và Park
(2008) về các nhân tố quyết định lạm phát ở 9 nước đang phát triển ở Châu Á (trong đó có Việt
13
Nam). Các nghiên cứu này chỉ ra rằng các nhân tố quyết định lạm phát ở các nước đang phát
triển bao gồm cung tiền, tỷ giá, các nhân tố chi phí đẩy và mang tính cơ cấunhư việc định giá
theo độc quyền nhóm và áp lực đối với chi phí của việc tăng lương
Các nghiên cứu về lạm phát ở Việt Nam
Dựa theo những lý thuyết đã có về lạm phát, các nghiên cứu, các nghiên cứu về lạm phát ở Việt
Nam cũng kết hợp nhiều nhân tố từ cả phía chi phí đẩy và phía cầu kéo của lạm phát nhằm giải
thích những biến động của lạm phát. Tuy nhiên, do thiếu số liệu hoặc do chủ ý của các tác giả,
phần lớn các nghiên cứu đều bỏ qua các nhân tố thuộc phía cung và tập chung chủ yếu vào các
nhân tố thuộc phía cầu. Nhân tố cung duy nhất được xem xét là các cú sốc từ quốc tế (giá của
dầu và trong một vài trường hợp giá của gạo). Những nghiên cứu gần đây về lạm phát ở Việt
Nam xoay quanh các nhân tố: CPI, cung tiền, lãi suất, tỷ giá, sản lượng, giá dầu và giá gạo thế
giới. Ví dụ cho những nghiên cứu định lượng về lạm phát ở Việt Nam bao gồm Võ Trí Thành và
đồng tác giả (2001), IMF (2003), Trương Văn Phước và Chu Hoàng Long (2005), IMF (2006),
Camen (2006), Goujon (2006),Nguyễn Thị Thùy Vinh và Fujita (2007), Nguyễn Việt Hùng và
Pfau (2008), Phạm Thế Anh (2008), Võ Văn Minh (2009) vàPhạm Thế Anh (2009)
Tổng quan các nghiên cứu đã có về các nhân tố quyết định lạm phát ở Việt Nam cho
thấy:
1. Hầu hết các nghiên cứu chỉ lấy giá dầu quốc tế (và đôi khi giá gạo quốc tế) làm đại
diện cho các nhân tố cung, bỏ qua các nhân tố khác như chi phí sản xuất, giá đôn và
các yếu tố cứng nhắc khác.
2. Hầu hết các nghiên cứu (ngoại trừ Phạm Thế Anh (2009) với số liệu cập nhật đến
cuối năm 2008) đều lạc hậu về số liệu và do đó không tính đến những lần lạm phát
gia tăng gần đây cũng như cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 2008-2009 đã dẫn đến
một loạt những thay đổi trong môi trường và chính sách vĩ mô.
3. Các kết quả nghiên cứu thực nghiệm về vai trò của tiền tệ là trái ngược nhau có thể là
do các giai đoạn nghiên cứu khác nhau, tần suất của số liệu khác nhau và phương
pháp ước lượng khác nhau.
4. Mặt khác, các nghiên cứu đều khá đồng nhất về vai trò quan trọng của lạm phát trong
quá khứ đối với lạm phát hiện tại và vai trò rất nhỏ của tỷ giá và giá cả quốc tế.
14
Những điểm này sẽ được tập trung nghiên cứu khi chúng tôi xây dựng mô hình của mình.
Phân tích các nhân tố vĩ mô cơ bản quyết định lạm phát ở Việt Nam
Mô hình
Dựa trên việc khảo sát các nghiên cứu về các nhân tố vĩ mô quyết định lạm phát chúng tôi xây
dựng một mô hình kết hợp giữa cách tiếp cận kinh tế học cơ cấu và cách tiếp cận kinh tế học tiền
tệ. Điều này nghĩa là lạm phát không chỉ là một hiện tượng tiền tệ do những méo mó trên thị
trường tiền tệ trong nước mà còn là kết quả của các yếu tố cơ cấu/chi phí đẩy. Đồng thời, dựa
vào Chhibber (1992), chúng tôi chia mức giá thành giá hàng hóa thương mại và giá hàng hóa phi
thương mại và chúng tôi cũng kiểm tra mối quan hệ PPP trong dài hạn cho trường hợp của Việt
Nam. Do vậy, về bản chất, mô hình của chúng tôi sử dụng cả ba cách tiếp cận đã nêu trong phần
trên.
Dựa vào những lý thuyết kinh tế đã được công nhận rộng rãi, chúng tôi diễn đạt mức giá
ở bất kỳ thời điểm nào của một nước (thường được đo bằng chỉ số giá tiêu dùng – CPI) bằng
bình quân gia quyền của giá hàng hóa thương mại (giá các loại hàng hóa và dịch vụ mà nước đó
xuất khẩu hoặc nhập khẩu) và giá cả hàng hóa phi thương mại (giá cả các hàng hóa và dịch vụ
được sản xuất và tiêu thụ trong nước). Theo Chhibber (1992), lạm phát, được diễn đạt là sự thay
đổi trong mức giá logP, phụ thuộc vào sự thay đổi của giá hàng hóa thương mại logPT, giá hàng
hóa phi thương mại logPNvà giá được kiểm soátlogPC. Mối quan hệ này có thể được diễn đạt
trong phương trình sau.
(1)
trong đóα1+ α2<1
Đối với hàng hóa thương mại, vì Việt Nam là một nền kinh tế nhỏ và mở, những thay đổi
trong giá hàng hóa thương mại phụ thuộc vào những thay đổi trong giá quốc tế logPfvà những
thay đổi trong tỷ giá hiện tại logE. Và do vậy, nói cách khác, chúng ta có thể mô hình giá hàng
hóa thương mại theo luật PPP. Và chúng tôi sẽ gọi nó là kênh tác động của giá hàng hóa thương
mại đến lạm phát.
(2)
15
Giá cả hàng hóa phi thương mại khó mô hình hóa hơn và chúng ta cần xem xét thị trường
trong nước để thấy những thay đổi của loại giá này. Chúng tôi giả định rằng thị trường hàng hóa
phi thương mại vận động cùng chiều với thị trường cả nước. Khi đó, giá cả hàng hóa phi thương
mại phụ thuộc và tổng cầu và tổng cung.
Về cơ bản, từ phía cung, những thay đổi trong hàng hóa phi thương mại phụ thuộc vào
những thay đổi trong chi phí hàng sản xuất trung gian (cả các hàng trung gian nhập khẩu và sản
xuất trong nước)IC, chi phí lao động (đo bằng tiền lươngW) và sự đôn giá từ phía cung MUscó
thể do thị trường không hoàn hảo gây ra. Những thay đổi trong giá cả hàng hóa trung gian nhập
khẩu vận động theo luật PPP trong phương trình (2). Những yếu tố này có thể được coi là các
nhân tố chi phí đẩy tác động đến lạm phát trong nước.
Về phía cầu, tổng cầu phụ thuộc vào thu nhập Y, lãi suất r, tài sản, thuế và tiêu dùng của
Chính phủ. Những thay đổi trong các nhân tố này có thể gây ra dư cầu và ảnh hưởng đến mức
giá và có thể được coi là các nhân tố cầu kéo của lạm phát.
Các nhân tố từ cả phía cung lẫn phía cầu có thể gây ra những biến động trong giá hàng
hóa phi thương mại và do đó ảnh hưởng đến mức giá chung. Chúng ta có thể cụ thể hóa kênh phi
thương mại như sau:
(3)
Sự thay đổi trong mức đôn giá chung phụ thuộc vào sự thay đổi trong mức đôn giá xuất
phát từ phía cung và mức độ dư cầu của nền kinh tế và bản thân dư cầu dẫn đến lượng tiền thực
tế dư thừa trong thị trường tiền tệ trong nước. Do vậy, cung và cầu về tiền thực tế cũng đóng có
ảnh hưởng đến mức giá chung củanền kinh tế.
Bởi vậy ta có hàm về lạm phát như sau (chữ in thường là thể hiện các biến được viết dưới
dạng log).
(4)
trong đó lạm phát trong quá khứ được dùng để thay thế cho kỳ vọng lạm phát.
Cho trường hợp của Việt Nam, dựa trên những kiến thức có được từ việc khảo sát tình
hình biến động của lạm phát ở Việt Nam trong phần 2 cũng như từ việc xem xét số liệu, chúng
tôi tiến hành một số sửa đổi so với mô hình trong phương trình (4). Trước tiên, chúng tôi phải bỏ
16
qua tiền lương và chi phí đầu vào phi thương mại do thiếu số liệu đáng tin cậy. Thay vào đó
chúng tôi sử dụng chỉ số giá bán của người sản xuất PPI (producers’ price index). Thứ hai,
chúng tôi cũng bỏ qua giá kiểm soát. Đây cũng là những sửa đổi chung của các nghiên cứu về
lạm phát ở Việt Nam. Tiếp theo, chúng tôi bổ sung vai trò của thâm hụt ngân sách thực tế (một
biến thay thế cho việc tài trợ ngân sách qua vay nợ và tăng cung tiền) do những biến động của
biến này có thể làm thay đổi kỳ vọng lạm phát và do đó việc nghiên cứu mối quan hệ giữa chúng
có thể đưa đến những phát hiện thú vị. Ngoài ra, do giá tài sản tài chính (như bất động sản và
chứng khoán) đã được chứng minh là có tác động đến lạm phát thông qua hiệu ứng về tài sản,
chúng tôi cũng đưa biến tài sản (Wealth) để đo tác động của thay đổi trong giá tài sản đến lạm
phát vào mô hình.
Những thay đổi kể trên so với mô hình truyền thống về các nhân tố quyết định lạm phát
khiến hàm lạm phát của chúng ta chuyển thành:
(5)
Chúng ta có thể tóm tắt các kênh truyền tải đến lạm phát của mô hình bằng hình vẽ sau.
Hình8. Các kênh truyền tải đến lạm phát
Mức giá
Giá hàng hóa thương mại
Giá hàng hóa phi thương mại
Tổng cầu
Tổng cung
Giá thế giới
Tỷ giá
(giá dầu, gạo và
các đầu vào nhập
khẩu khác)
Chi phí đầu vào
trong nước và nhập
khẩu, đôn giá phía
cung, tỷ giá
Tiền tệ và tín dụng,
lãi suất, thu nhập, tài
sản, chi tiêu và thuế
của Chính phủ
Số liệu và các kiểm định
Để tiến hành ước lượng các nhân tố vĩ mô quyết định lạm phát ở Việt Nam, chúng tôi sử dụng số
liệu thứ cấp theo tháng từ tháng 1 năm 2001 đến tháng 3 năm 2010. Những số liệu này được thu
thập từ Tổng cục thống kê Việt (GSO), Ngân hàng Nhà nước (NHNN), Bộ Tài chính (MoF),
17
Thống kê tài chính thế giới (IFS), Viện nghiên cứu gạo thế giới (IRRI) và Sản chứng khoán
Thành phố Hồ Chí Minh. Chúng tôi chia các số liệu này thành hai nhóm: (1) nhóm số liệu truyền
thống đã được sử dụng cho trường hợp của Việt Nam: CPI, sản lượng công nghiệp, cung tiền
M2, lãi suất, tỷ giá, giá dầu quốc tế và (2) nhóm số liệu mở rộng bao gồm các số liệu hiếm khi
hoặc chưa bao giờ được sử dụng trong các nghiên cứu về các nhân tố quyết định lạm phát ở Việt
Nam: tín dụng, chỉ số giá bán của người sản xuất, thâm hụt ngân sách, giá trị giao dịch trên thị
trường chứng khoán, chỉ số giá nhập khẩu và giá gạo quốc tế. Đồ thị mô tả biến động của các số
liệu này nằm trong phần Phụ lục. Các số liệu chỉ có theo quý được nội suy thành số liệu tháng
trong mô hình.
Bước đầu tiên của chúng tôi là kiểm tra xem bộ số liệu mô tả ở trên (dưới dạng log và đã
điều chỉnh theo mùa vụ) có tính dừng hay không. Cả kiểm định Augmented Dickey-Fuller
(ADF) và kiểm định Phillips Peron (PP) đều được sử dụng để có được kết luận chính xác. Độ trễ
trong kiểm định ADF được lựa chọn theo tiêu chuẩn Akaike Information Criterion (AIC),
Schwarz Information (SIC) và tiêu chuẩn LR. Kết quả kiểm định cho thấy tất cả các biến đều có
nghiệm đơn vị (không dừng). Tuy nhiên, phương sai bậc nhất cho thấy các biến đều dừng nghĩa
là tất cả các biến đều có tính tích hợp bậc 1- I(1).
Tiếp đến chúng tôi dự đoán giữa các biến của mô hình có tồn tài một số mối quan hệ dài
hạn. Ở bước này, chúng tôi sử dụng kiểm định tự tương quan Johansen để kiểm tra các mối quan
hệ dài hạn dựa vào lý thuyết kinh tế. Vì tất cả các biến đều có tính tích hợp bậc 1, chúng tôi sử
dụng trực tiếp giá trị của các biến dưới dạng log (chứ không phải dạng phương sai) trong kiểm
định tự tương quan. Mô hình của chúng ta gợi ý có ba mối quan hệ dài hạn tương ứng với ba
kênh của lạm phát: (i) kênh PPP, (ii) kênh tổng cầu và (iii) kênh tổng cung. Các kiểm định tự
tương quan Johansen đã cho thấy các mối quan hệ dài hạn tồn tại giữa các biến trong mô hình.
Các sai số ecmscó được từ các kiểm định Johansen sẽ được đưa vào ước lượng của chúng tôi về
các nhân tố quyết định lạm phát nếu chúng có ý nghĩa thống kê.
Kết quả mô hình VECM và những thảo luận chính sách
Chúng tôi sử dụng mô hình ước lượng VECM để đánh giá các nhân tố tác động những biến động
hàng tháng của lạm phát trong nước. Kết quả ước lượng nằm trong phần Phụ lục. Chúng tôi cũng
tiến hành phân rã phương sai và xây dựng các hàm phản ứng. Những phát hiện mang tính thực
nghiệm trong nghiên cứu giúp chúng ta có những tầm nhìn chính sách như sau.
18
Thứ nhất,nghiên cứu này chỉ ra rằng công chúng có khuynh hướng lưu giữ ấn tượng về
lạm phát trong quá khứ, đồng thời có kỳ vọng nhạy cảm về lạm phát trong tương lai. Đây là hai
yếu tố đồng thời chi phối mức lạm phát hiện tại. Điều này hàm ý rằng uy tín hay độ tinh cậy của
Chính phủ trong các chính sách liên quan đến lạm phát có vai trò to lớn trong việc tác động tới
mức lạm phát hiện thời.
Ký ức hay ấn tượng về một giai đoạn lạm phát cao trong quá khứ thường chỉ bắt đầu mờ
nhạt dần sau khoảng 6 tháng có lạm phát thấp liên tục và ổn định. Điều này hàm ý rằng để chống
lạm phát, Chính phủ trước hết phải giữ được mức lạm phát thấp ít nhất trong vòng sáu tháng, qua
đó dần lấy lại niềm tin của công chúng về một môi trường giá cả ổn định hơn. Điều này cũng
đồng nghĩa với điều đáng lưu ý là Chính phủ phải kiên nhẫn trong quá trình chống lạm phát.Sáu
tháng có thể được xem như giới hạn thấp nhất cho nỗ lực duy trì môi trường lạm phát thấp của
Chính phủ nhằm lấy lại niềm tin của công chúng, để công chúng cho rằng Chính phủ đang cam
kết chống lạm phát một cách nghiêm túc, và do đó là cam kết xây dựng một môi trường vĩ mô ổn
định.
Kết quả ước lượng cũng chỉ ra rằng đa số các biến vĩ mô (như tỷ giá, tăng trưởng tín dụng
và tiền tệ) đều phát huy ảnh hưởng lên chỉ số giá tiêu dùng trước vài tháng so với ảnh hưởng lên
chỉ số giá sản xuất. Điều này một lần nữa hàm ý tầm quan trọng tương đối của kênh lan truyền
lạm phát qua kỳ vọng so với kênh lan truyền thực (chuyển hóa giá qua quá trình sản xuất thực).
Sự kết hợp giữa ký ức dai dẳng về lạm phát trong quá khứ và sự nhạy cảm về kỳ vọng
lạm phát trong tương lai trong việc quyết định mức lạm phát ở hiện tại giải thích một thực tế ở
Việt Nam là sẽ rất khó kiềm chế lạm phát khi lạm phát đã bắt đầu cao, nhưng cũng rất khó giữ
lạm phát ổn định khi lạm phát đang ở mức thấp. Nói cách khác, lạm phát rất nhạy cảm với các
điều kiện hiện thời, đặc biệt những điều kiện có khả năng tác động đến kỳ vọng của công chúng.
Do đó, trạng thái lạm phát thấp thực tế là một cân bằng không bền và rất dễ bị phá vỡ, trong khi
tình trạng lạm phát cao có khuynh hướng tự tái tạo.
Thứ hai, khác với những giải thích thường xuyên của Chính phủ là lạm phát chủ yếu do
các yếu tố bên ngoài như giá cả thế giới (nhập khẩu lạm phát), nghiên cứu này chỉ ra rằng lạm
phát ở Việt Nam có nguyên nhân chủ yếu từ nội địa. Các phát hiện cho thấy mức giá cả thế giới
có khuynh hướng gây ảnh hưởng lên mức giá thấp hơn các nhân tố khác trong nền kinh tế. Cần
lưu ý rằng, giá thế giới thực sự có ảnh hưởng lên giá sản xuất. Nhưng theo kênh lan truyền từ giá
19
sản xuất đến giá tiêu dùng thì hiệu ứng gây lạm phát này phải mất vài tháng mới phát huy tác
dụng.
Thứ ba, tốc độ điều chỉnh của thị trường tiền tệ và thị trường ngoại hối khi có biến động
là rất thấp và thậm chí gần với không. Điều này cho thấy một khi các thị trường này lệch khỏi xu
hướng dài hạn, nền kinh tế sẽ mất rất nhiều thời gian để cân bằng trở lại dù Chính phủ có nỗ lực
can thiệp về chính sách. Điều này có ý nghĩa quan trọng về chính sách kiểm soát lạm phát: các
giải pháp nhằm ngăn ngừa với mục tiêu lạm phát rõ ràng sẽ có kết quả tốt hơn nhiều so với việc
cố gắng xử lý lạm phát khi nó đã tăng lên. Đồng thời, phản ứng chính sách không phù hợp sẽ rất
khó điều chỉnh trở lại và lạm phát sẽ kéo dài.
Mặt khác, tốc độ điều chỉnh từ các biến động phía cung có tác động lớn hơn (dù vẫn nhỏ)
lên lạm phát. Mặc dù cần có những kiểm định thực nghiệm cụ thể hơn với các số liệu như tiền
lương và chi phí sản xuất, phát hiện ban đầu này trong nghiên cứu của chúng tôi cho thấy việc
khuyến khích tăng trưởng kinh tế thông qua gia tăng năng suất lao động và tăng sản lượng có tác
động tích cực hơn trong việc kiểm soát lạm phát trong dài hạn so với các biện pháp tiền tệ và phi
tiền tệ.
Thứ tư, kết quả nghiên cứu cho thấy Chính phủ đã thực sự có những phản ứng chống lạm
phát thông qua các chính sách tiền tệ và tài khóa, nhưng thường phản ứng chậm hoặc thụ động
trong đa số trường hợp. Đối với chính sách tài khóa, có thể dễ dàng hiểu được điều này vì để
thay đổi một kế hoạch tài khóa thường mất nhiều thời gian tranh luận, đạt tới sự nhất trí rồi thực
hiện triển khai. Tuy nhiên, điều đáng lưu ý là chính sách tiền tệ cũng tỏ ra được thực thi khá
chậm chễ kể từ khi những tín hiệu đầu tiên của lạm phát xuất hiện. Điều này có thể được giải
thích thông qua thực tế là ngay cả việc xác định và thừa nhận lạm phát cũng luôn là một vấn đề
gây tranh cãi, và thường Chính phủ rất miễn cưỡng khi thừa nhận thực tế là lạm phát bắt đầu
xuất hiện. Thêm vào đó, Chính phủ thường có khuynh hướng đổ lỗi cho lạm phát bắt nguồn từ
những nguyên nhân “khách quan” hay từ những nguồn gốc “bên ngoài.”Do đó, thường mất một
thời gian để chuyển hóa nhận thức lạm phát từ công chúng thành nhận thức của Chính phủ, và do
đó là những phản ứng chính sách tiền tệ phù hợp. Ví dụ, như trong nghiên cứu đã chỉ ra, trong đa
số các trường hợp, lãi suất thường được điều chỉnh tăng sau khi đã xuất hiện dấu hiệu tăng CPI
khoảng 3 tháng. Và ngay cả việc tăng lãi suất như vậy chủ yếu nhằm làm cho phù hợp với mức
lạm phát mới, hơn là sự chủ động thắt chặt tiền tệ để chống lạm phát.
20
Ngay cả khi chính sách thắt chặt tiền tệ được thực hiện, thì thường mất khoảng 5 tháng
nó mới phát huy tác dụng lên lạm phát. Như vậy, vào lúc đó, lạm phát đã cao được khoảng 7 đến
8 tháng. Quãng thời gian này đủ để tạo nên một ký ức về lạm phát và do đó việc kiềm chế lạm
phát sẽ khó khăn hơn.
Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng trong các công cụ của chính sách tiền tệ, tăng lãi suất
thường có hiệu ứng tức thời lên lạm phát, so với dộ trễ dài hơn của chính sách thắt chặt tín dụng
và tiền tệ. Tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng của thay đổi lãi suất lại khá nhỏ. Kết quả là, công cụ
tiền tệ ở Việt Nam không hoàn toàn là một công cụ phản ứng nhanh và hiệu quả như vẫn tưởng.
Thứ năm, trái ngược với những nghiên cứu đã có, kết quả của chúng tôi cho thấy tỷ giá,
cụ thể là việc phá giá, có tác động đáng kể làm tăng áp lực lạm phát. Sự khác biệt trong kết quả
này có thể được giải thích một phần là do các nghiên cứu trước đây chủ yếu nghiên cứu trong các
giai đoạn tỷ giá được giữ tương đối cứng nhắc. Gần đây, từ cuối năm 2008, NHNN đã tiến hành
phá giá nhiều hơn và với mức độ lớn hơn. Thêm vào đó, những biến động gần đây trên thị trường
ngoại hối, đặc biệt là thị trường tự do, trong năm 2009 và 2010 do niềm tin của vào tiền đồng bị
sụt giảm, do hoạt động đầu cơ và tình trạng đô la hóa đã dẫn đến kỳ vọng về lạm phát trở lại của
người dân tăng lên. Điều này có thể khiến cho tác động của tỷ giá đối với lạm phát tăng lên như
kết quả của nghiên cứu này cho thấy.
Cuối cùng, nghiên cứu không cho thấy tác động rõ ràng của thâm hụt ngân sách đối với
lạm phát trong giai đoạn nghiên cứu. Điều này không có nghĩa là thâm hụt ngân sách không có
ảnh hưởng đến lạm phát. Nguyên nhân của điều này là do việc tài trợ ngân sách thường có hai
tác động trái chiều. Một mặt, tài trợ ngân sách bằng việc gia tăng vay nợ của Chính phủ làm tăng
lãi suất do nhu cầu vay cao hơn. Điều này cũng tương tự như chính sách tiền tệ thắt chặt và do đó
góp phần giảm phần nào lạm phát. Mặt khác, tài trợ ngân sách thông qua việc tăng cung tiền (nếu
có) cũng tương tự như chính sách tiền tệ mở rộng và gây áp lực lạm phát. Hai tác động trái chiều
này làm giảm thậm chí triệt tiêu lẫn nhau ảnh hưởng của chúng lên lạm phát.
Từ những đặc điểm trên của lạm phát ở Việt Nam, chúng ta có thể đi tới một hàm ý quan
trọng rằng Chính phủ nên có những cam kết mạnh mẽ trong việc chống lạm phát không chỉ khi
lạm phát đang cao, mà còn phải có những cam kết duy trì lạm phát thấp ngay cả khi lạm phát
đang khá thấp và ổn định. Và hành động sau có lẽ quan trọng không kém gì hành động trước.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy chiến lược này của Chính phủ thường rất khó được thực thi vì Chính
21
phủ thường có khuynh hướng ưu tiên tăng trưởng kinh tế nhiều hơn, và coi nhẹ việc giữ cho môi
trường vĩ mô được ổn định.
Kết luận
Trong báo cáo này, chúng tôi khảo sát những biến động của lạm phát ở Việt Nam trong thập kỷ
qua với mối quan hệ chặt chẽ đến một loạt những thay đổi trong môi trường kinh tế cũng như
trong các chính sách kinh tế vĩ mô. Đồng thời, việc khảo sát các nghiên cứu về các nhân tố quyết
định lạm phát nói chung và trường hợp Việt Nam nói riêng giúp chúng tôi hình thành một danh
sách các nhân tố vĩ mô tiềm năng có thể quyết định sự biến động của lạm phát và đưa ra các giả
thuyết về mối quan hệ giữa chúng với lạm phát ở Việt Nam.
Nghiên cứu sau đó xem xét các nhân tố vĩ mô quyết định lạm phát ở Việt Nam trong giai
đoạn 2000-2010. Mô hình mà chúng tôi sử dụng đưa ra ba kênh truyền tải mà qua đó một loạt
các biến nội sinh và ngoại sinh có thể ảnh hưởng đến mức giá. Các kênh đó là kênh ngang giá
sức mua (PPP), kênh tổng cầu (AD) và kênh tổng cung (AS). Những kết quả chủ yếu của nghiên
cứu bao gồm: (1) quán tính lạm phát của Việt Nam là cao và là một nhân tố quan trọng quyết
định lạm phát của Việt Nam trong hiện tại; (2) tốc độ điều chỉnh là rất thấp trên cả thị trường tiền
tệ và thị trường ngoại hối, hàm ý kiểm soát lạm phát một cách có hiệu quả là rất khó một khi nó
đã bắt đầu tăng lên; (3) mức chuyển tỷ giá vào lạm phát là đáng kể trong ngắn hạn với việc phá
giá dẫn đến giá cả tăng lên trong khi thâm hụt ngân sách cộng dồn không có ảnh hưởng nhiều
đến lạm phát; (4) cung tiền vài lãi suất có tác động đến lạm phát nhưng với độ trễ; và (5) mức
chuyển trong ngắn hạn của giá quốc tế đến giá nội địa cũng có vai trò nhất định.
Hạn chế chính của nghiên cứu này là việc sử dụng tỷ giá chính thức giữa VND và USD
thay vì tỷ giá hữu hiệu giữa VND và các đồng tiền của nhiều nước bạn hàng, do đó mối quan hệ
PPP không được phản ánh đầy đủ do không tính đến các đồng tiền nước khác. Tuy nhiên, việc sử
dụng tỷ giá chính thức cho phép chúng tôi xác định được tác động của lạm phát lên tỷ giá cũng
như sức ép lên lạm phát của tỷ giá chính thức. Một hạn chế nữa là việc thiếu số liệu về tiền
lươngvà hành vi thiết lập giá của doanh nghiệp với tư cách là các nhân tố phía cung có thể ảnh
hưởng đến lạm phát. Tuy nhiên chúng tôi đã không thể thu thập được số liệu đáng tin cậy. Kết
quả nghiên cứu hứa hẹn sẽ có nhiều kết quả hơn nếu thu thập được những số liệu này.
Do nghiên cứu này chủ yếu tập trung vào các nhân tố vĩ mô quyết định lạm phát, nó bỏ
qua vai trò của các nhân tố vi mô như cấu trúc của từng thị trường, vị trí địa lý, loại hàng hóa…
22
là những nhân tố có thể giúp giải thích sự biến động mạnh cũng như tình trạng kéo dài của lạm
phát. Với những phát triển mới theo hướng nay, hy vọng chúng ta sẽ tìm được nhiều phát hiện
mới hơn nữa về nguyên nhân lạm phát ở Việt Nam.
Tài liệu tham khảo
Akinboade, O., F. Siebrits and E. Niedermeier (2004), “The Determinants of Inflation in South
Africa: An Econometric Analysis,” AERC Research Paper 143
Bodart, V. (1996), “Multiple exchange rates, fiscal deficits and inflation dynamics,” IMF
Working Paper WB/96/56. Washington D.C. IMF
Camen, U. (2006), “Monetary Policy in Vietnam: The Case of a Transition Country,”
BISWorking Paper No. 31. Bank for International Settlement, Basel.
Calvo, G (1983), “Staggered Prices in a Utility Maximizing Framework,” Journal of Monetary
Economics, 12, 383-398.
Chhibber, A. (1991), “Africa’s Rising Inflation: Causes, Consequences, and Curse,” WB
Working Paper WPS 577 Washington D.C. WB
Freidman, M. (1968), “The Role of Monetary Policy,” American Economic Review, 58, 1-17
Frisch, H. (1983), Theories of Inflation, Cambridge University Press
Gali, J. and M. Gertler (1999), “Inflation Dynamics: A Structural Econometric Analysis,”
Journal of Monetary Economics, No. 44, pp. 195-222
Goujon, M (2006), “Fighting Inflation in a Dollarized Economy: the Case of Vietnam,” Journal
of Comparative Economics No.34, pp. 564–581
GSO (2010) General Statistics Office database
IMF (2003), IMF Country Report No. 03/382, International Monetary Fund.
IMF(2006), IMF Country Report No. 06/52, International Monetary Fund.
Laryea, S. and U. Sumaila (2001), “Determinants of Inflation in Tanzania,” CMI Working Paper
2001:12, Chr. Michelsen Institute
23
Le Anh Tu Packard (2005), “Monetary Policy in Vietnam: Alternative to Inflation Targetting,”
Paper prepared for the Danang July 28 – 30, 2005 Summer Symposium on Continuing
Economic and Social Renovation for Development.
Le Viet Hung and W. Pfau (2008), “VAR Analysis of the Monetary Transmission Mechanism in
Vietnam,” http://ssrn.com/abstract=1257854
Lim, Cheng Hoon and L. Papi (1997), “An Econometric Analysis of the Determinants of
Inflation in Turkey,” IMF Working Paper WP/97/170
Nguyễn Đức Thành and Đinh Tuấn Minh (2010), “The Vietnamese Economy in 2005-2009 and
Prospects”, Review of World Economic and Political Issues, Vol. 2010 (2): 60-70.
Nguyen Thi Thu Hang, Dinh Tuan Minh, To Trung Thanh, Le Hong Giang, Pham Van Ha
(2010), “Exchange Rate Policy: Choices for Recovery,” in Nguyen Duc Thanh edt.
Vietnam Annual Economic Report 2010: Choices for Sustainable Growth, Tri Thuc
Publishing House.
Nguyen Thi Thuy Vinh and S. Fujita (2007), “The Impact of Real Exchange Rate on Output and
Inflation in Vietnam: A VAR Approach,” Discussion Paper No. 0625
Peiris, S. (2003), “Inflation Dynamics in Vietnam,” Vietnam: Selected Issues, IMF Country
Report No. 03.281
Phelps, E. (1967), “Phillips Curves, Expectation of Inflation, and Optimal Inflation over Time,”,
Economica, 135, 254-281
Phillips, A. (1958), “The Relation between Unemployment and the Rate of Change of Money
Wage Rates in the United Kingdom, 1861-1857,” Economica, 25, 283-99
Pham The Anh (2008) “Ứng dụng mô hình SVAR trong việc xác định hiệu ứng của chính sách
tiền tệ và dự báo lạm phát ở Việt Nam”
Pham The Anh (2009), “Mô hình ước lượng các nhân tố quyết định lạm phát ở Việt Nam.”
Pham Thi Thu Trang (2009), “Các yếu tố tác động tới lạm phát tại Việt Nam – Phân tích chuỗi
thời gian phi tuyến,” Tạp chí Kinh tế và Dự báo số 12 (452)
24
Rudd J. and K. Whelan (2005), “Modelling Inflation Dynamics: A Critical Review of Recent
Research,” Finance and Economics Discussion Series, Divisions of Research & Statistics
and Monetary Affairs, Federal Reserve Board, Washington, D.C.
Saini, K.G. (1982), “The Monetarist Explanation of Inflation: the Experience of Six Asian
Countries,” World Development, 10 (10): 871-84
Sargent, T. (1971), “A Note on the “Accelerationist’ Controversy,” Journal of Money, Credit
and Banking, 3, 721-725
Taylor, J. (1979) “Staggered Wage Setting in a Macro Model,” American Economic Review,
Papers and Proceedings, Vol. 69, 108-133.
Truong Van Phuoc and Chu Hoang Long, “Chỉ số giá tiêu dùng Việt Nam và các yếu tố tác
động: Phương pháp tiếp cận định lượng,”
UNDP (2008), “Food Inflation in Vietnam: Analysis of Trends and Policy Implications,”
Research Paper
Vo Van Minh (2009), “Exchange Rate Pass-Through and Its Implications for Inflation in
Vietnam,” Working Paper 0902, Vietnam Development Forum
̀
Vo Tri Thanh, Dinh Hien Minh, Do Xuan Truong, Hoang Van Thanh and Pham Chi Quang
(2000), “Exchange Rate Arrangement in Vietnam: Information Content and Policy
Options,” East Asian Development Network (EADN), Individual Research Project
Woodford, M. (2003), Interest and Prices, Princeton University Press
25
Phụ lục
Hình 1A. Số liệu dưới dạng log, 2001-2010
IND
PPI
EX_RATE
P_DEBT
11.2
10.8
10.4
10.0
9.6
5.3
5.2
5.1
5.0
4.9
4.8
4.7
4.6
9.85
9.80
9.75
9.70
9.65
9.60
9.55
11.6
11.2
10.8
10.4
10.0
9.6
9.2
01
01
01
02
02
02
03
03
03
04
04
04
05
06
07
07
07
08
08
08
09 10
09 10
09 10
01
01
01
02
02
02
03
03
03
04
04
04
05
06
07
07
07
08
08
08
09 10
01
01
01
02
03
03
03
04
04
04
05
06
07
07
07
08
08
08
09 10
09 10
09 10
01
01
01
02
02
02
03
03
03
04
04
04
05
06
07
07
07
08
08
08
09 10
09 10
09 10
CPI
M2
TR_VAL
PI
5.4
5.2
5.0
4.8
4.6
4.4
14.5
14.0
13.5
13.0
12.5
12.0
15
14
13
12
11
10
5.1
5.0
4.9
4.8
4.7
4.6
4.5
05
06
05
06
09 10
02
05
06
05
06
CREDIT
IN_RATE
WP_OIL
WP_RICE
15.0
14.5
14.0
13.5
13.0
12.5
12.0
11.5
20
18
16
14
12
10
8
4.8
4.4
4.0
3.6
3.2
2.8
7.0
6.5
6.0
5.5
5.0
05
06
05
06
09 10
02
05
06
05
06
26
Bảng 1A. Kết quả mô hình VECM mở rộng
Ước lượng VECM
Mẫu (đã điều chỉnh): 2001M08 2010M03
Số quan sát: 104 sau khi điều chỉnh
Sai số chuẩn nằm trong ( ) &*, **, *** có ư nghĩa tại mứctương ứng 10%, 5% and 1%
LR test for binding restrictions (rank = 3):
Chi-square(20)
Probability
407.6980
0.000000
Error Correction:
CointEq1(PPP)
CointEq2(AD)
CointEq3(AS)
D(CPI(-1))
D(IND)
D(PPI)
D(CPI)
D(M2)
D(CREDIT) D(IN_RATE) D(EX_RATE) D(P_DEBT) D(TR_VAL)
-0.038466*
(0.02210)
0.052330
(0.03959)
0.100670**
(0.04598)
-1.318734*
(0.67163)
D(CPI(-3))
0.359712**
(0.15708)
0.580655***
(0.16598)
D(CPI(-6))
-0.356607**
(0.16548)
D(M2(-3))
0.233534***
(0.05848)
0.117679*
(0.06179)
D(M2(-4))
0.595684*
(0.30658)
D(M2(-5))
0.173791**
(0.07748)
D(CREDIT(-1))
D(CREDIT(-5))
D(CREDIT(-6))
0.090526**
(0.04503)
-0.333680*
(0.16911)
18.90321**
(7.81399)
0.132456**
(0.05269)
27
D(IN_RATE(-1))
D(IN_RATE(-2))
D(IN_RATE(-3))
D(IN_RATE(-6))
D(EX_RATE(-2))
D(EX_RATE(-3))
D(EX_RATE(-4))
D(EX_RATE(-5))
D(P_DEBT(-1))
D(P_DEBT(-2))
D(P_DEBT(-4))
D(P_DEBT(-5))
D(P_DEBT(-6))
D(PI(-1))
-0.002385* -0.012570***
-0.510377**
(0.21009)
-0.590047**
(0.25606)
-0.475447**
(0.21711)
(0.00124)
(0.00442)
-0.003263**
(0.00129)
-0.020459**
(0.00905)
-0.374874** 2.510492**
1.501310***
(0.54747)
(0.18394)
(0.98757)
0.243256*
(0.13446)
0.554607**
(0.25698)
1.186950**
(0.47788)
0.501922**
(0.24322)
0.427214*
(0.24719)
1.579643*
(0.92829)
-0.172000*
(0.09795)
2.201279*
(1.23253)
-1.730387*
(0.93141)
0.104893***
(0.03291)
0.077215***
(0.02451)
-4.461876**
(2.25295)
-2.905588*
(1.67771)
-0.056626**
(0.02803)
0.048651**
(0.02286)
0.198223*
(0.10051)
-10.07349*
(5.34579)
0.302765**
(0.14970)
0.292792*
(0.15818)
-2.084422**
(1.01414)
D(PI(-2))
0.334365*
(0.19219)
D(PI(-3))
53.10642*
(30.9452)
D(PI(-5))
0.448763*** 0.406398***
-17.91753*
(10.7630)
(0.12461)
-0.224043*
(0.12276)
(0.13166)
-0.318403**
(0.12971)
D(PI(-6))
0.803692*
(0.46099)
3.265324***
(0.83158)
D(WP_OIL(-1))
D(WP_OIL(-6))
0.022041***
(0.00798)
0.576816* -0.033189*** -0.025790***
(0.30575) (0.00856) (0.00905)
-0.084821*
(0.05114)
28
D(WP_RICE(-1))
D(WP_RICE(-5))
D(WP_RICE(-6))
C
0.027654**
(0.01145)
0.031817***
(0.01210)
0.020458*
(0.01040)
6.346063*** 0.061186***
(1.75461)
6.008803**
(2.53380)
(0.01241)
-0.010456***
(0.00328)
R-squared
0.894540
0.612056
0.234374
0.091490
3.166700
169.3823
-1.795813
0.136626
0.010744
0.146890
0.959219
0.849984
0.000184
0.002562
8.781220
541.2247
-8.946628
-7.014189
0.005861
0.006615
0.954655
0.833195
0.000205
0.002707
7.859852
535.4973
-8.836487
-6.904048
0.007003
0.006628
0.836773
0.399559
0.002592
0.009622
1.913873
403.6136
-6.300262
-4.367823
0.020402
0.012417
0.791742
0.233908
0.004570
0.012775
1.419314
374.1320
-5.733308
-3.800869
0.023961
0.014595
0.896152
0.617989
5.845999
0.456931
3.221676
2.119327
1.420782
3.353222
0.042680
0.739286
0.906174
0.654855
0.000293
0.003233
3.605666
517.0477
-8.481686
-6.549247
0.002109
0.005502
0.930560
0.744559
0.008435
0.017356
5.002998
342.2585
-5.120356
-3.187917
0.018092
0.034341
0.856030
0.470395
1.371299
0.221303
2.219796
77.51928
-0.029217
1.903223
0.023304
0.304096
Adj. R-squared
Sum sq. resids
S.E. equation
F-statistic
Log likelihood
Akaike AIC
Schwarz SC
Mean dependent
S.D. dependent
29
Bạn đang xem tài liệu "Đề tài Nguồn gốc lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2000-2010: Phát hiện mới từ những bằng chứng mới", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- de_tai_nguon_goc_lam_phat_o_viet_nam_giai_doan_2000_2010_pha.pdf